Một chút màu xanh

09:25 21/03/2008
Anh chị dọn về đây từ hồi mới cưới nhau. Căn phòng xinh xinh, quét vôi xanh nhạt, trang nhã và sạch sẽ.

Một chút màu xanh - Phụ bản Bửu Chỉ

Trên vách, chị treo chiếc gương soi hình trái tim, viền ruy-băng hồng thắt thành nơ - đó là quà kỷ niệm cưới của hai người. Trên đầu tủ đặt chiếc giỏ tre đan, bên trong thường cắm một bó cúc tím nho nhỏ, hoặc hoa bươm bướm vàng. Vào những ngày trọng đại của hai vợ chồng - sinh nhật chị chẳng hạn - anh còn đi kiếm cả hồng nhung, và cái tổ ấm cỏn con như sáng hẳn lên, xinh tươi, ấm cúng.
Bây giờ, chiếc giỏ tre đan vẫn ở đấy. Nhưng những bông hoa không còn. Quanh đây chẳng ai trồng hoa hoét gì, phải đạp xe hai ba cây số mới tìm được một chùm cúc hay tử vi, mà cũng chỉ nửa buổi là tàn ngay trong sức nóng hun đốt của bốn bức vách, dưới nắng trời tháng sáu. Trong tấm ảnh ở đầu giường, chị vẫn mỉm cười duyên dáng với đôi mắt lấp lánh, nhưng lắm lúc từ lớp học trở về, anh gặp vợ ngồi xổm trên nền nhà, mặt dính nhọ, loay hoay sửa bếp dầu. Có hôm chị đội nón, lúi húi thổi cái bếp củi ngoài hiên, nước mắt chị ràn rụa vì khói, và chị gắt lên cả với anh:
- Này, ở đâu mà trưa nửa ngày mới lò dò về đây… chẻ cho người ta ít củi khô nhanh lên!
Anh im, vào nhà, thay áo vội vàng rồi lấy rựa ra sân, lẳng lặng làm nhiệm vụ.
Buổi trưa trôi qua, cơm nóng, canh nóng, căn phòng cũng nóng. Sao trời nắng như đổ lửa thế này nhỉ? Cơm nuốt chẳng muốn trôi. Anh đề nghị:
- Này, mai em làm bún xáo ăn đi. Ăn cơm chán quá.
- Chà! Chị ngắt lời. Anh thì chỉ được cái… ăn cho sướng vào để rồi treo niêu đấy hẳn… Nói phiền lắm!
- Thì anh nói thế, không ưng thì thôi, có gì mà phiền! Anh bực mình, cố dịu giọng.
Chị nghe giọng anh hơi bực bội thì nhận ra ngay lỗi của mình nhưng vẫn không chịu thua:
- Anh bao giờ cũng thế, nhiều chuyện lắm chứ không phải chỉ chuyện này đâu?
- …
Anh định cãi, nhưng rồi lại im lặng.
Chẳng hiểu sao hồi này chị hay cáu gắt thế nhỉ. Anh thấy vợ uể oải, phờ phạc ra. Vì lo lắng cho gia đình, hay vì chưa quen với nơi ở mới? Căn phòng hơi tù túng, thiếu thoáng khí. Lúc nghĩ tới điều đó, anh thương vợ, nhưng khi phải chịu đựng những câu cáu bẳn ngang phè phè của cô anh không thể không nhăn mặt khó chịu, muốn đạp hết cho rảnh. Còn chị, mỗi lần cằn nhằn với chồng xong, chị ngồi yên, mơ hồ thấy buồn: chị thấy mình đâm ra xấu tính, nhăn nhó như bà già, chị ngượng với chồng và … Thật bực mình, chẳng hiểu tại sao.
Đêm đến, trời vẫn nóng hâm hấp. Cái nóng râm ran như còn tích tụ trong từng viên ngói trên mái nhà. Hai vợ chồng xoay lưng vào nhau mà ngủ. Lát sau chị tỉnh giấc, quay lại. Dưới ánh đèn chong, anh nằm ngoẹo đầu, một dòng nước bọt chảy xuống gối. Với tay, chị lấy chiếc khăn ở đầu giường lau nhè nhẹ cho chồng.
Anh cựa mình, ngáp dài ngái ngủ rồi quờ quạng nắm lấy tay vợ. Tay chị nóng hâm hấp như da gà. Bất giác, chị thở dài, bảo chồng:
- Mình phải cố tậu cái quạt máy, anh ạ. Nóng quá chịu không nổi.
Anh “ừ” rồi nửa mê nửa tỉnh, quàng tay lên vai chị. Chị mỉm cười… Đêm yên ắng lạ lùng. Một con thằn lằn ở đâu đó chợt tắc lưỡi trong bóng tối.
Phải có một chiếc quạt, cả hai anh chị đều đồng ý như thế. Còn phải chuẩn bị để lỡ ra thai nghén, sinh đẻ nữa chứ. Đến lúc sinh con, ai mà nằm mãi cả ngày trong cái hộp này nổi.
Quạt chưa có nhưng anh đã kiếm gỗ đóng một cái ghế nhỏ, sơn trắng muốt, để dành cho nó. Từ khi vừa bắn tin, đã có bao nhiêu người giới thiệu quạt cũ muốn bán lại, còn hai vợ chồng thì tích cực để dành tiền và tích cực đi xem. Nhưng hai tháng trôi qua, vẫn chưa kiếm được cái nào vừa ý. Cái thì thực tốt, mới tinh, nõn nà, có lồng bảo hộ, có “tuốc năng” hẳn hoi mới mua từ Nga về, nhưng giá tiền đắt quá. Cái thì vừa giá, lại vừa tươm tất, nhưng phải xài điện 220 mới được, mà ở đây khu tập thể lại dùng điện 110. Quanh đi, quẩn lại, hai anh chị quyết định gửi mua một cái quạt Hà Nội. Có mấy trăm thôi mà vừa gọn, vừa bền, chạy khỏe.
- Phải đấy anh ạ, ta chỉ cần cho không khí nó thoáng một chút. Dùng quạt lớn thì tốt đấy nhưng phung phí cả tiền, mình còn sắm lắm thứ nữa.
Chị bảo anh như thế. Anh cười:
- Thì hẳn thế… Nhưng mua quạt mậu dịch thì chờ mãi cửa hàng mới bán, mà ở nhà thì thêm mỗi ngày là mỗi ngày hết chịu nổi.
- Thì mình cũng đã chịu đựng bao nhiêu ngày rồi, làm cái gì mà như chết đến nơi thế.
Anh cười làm lành:
- Thôi thì tùy cô… Ăn thua ở cô đấy miễn là cô giữ được tiền đến khi người ta bán cho.
- Chà, đừng có lo cho em, lo cho anh đấy. Thuốc lá nhiều vào!
Anh “hừm” một tiếng, nửa cáu, nửa đùa. Anh là tay hút nghiện, hồi trước hôm nào không có thuốc thì nhức đầu, chóng mặt. Từ ngày cưới nhau, chị kèm riết không cho hút, đến khi bắt đầu tích lũy tiền để sắm thứ nọ, thứ kia thì lịnh cấm càng ngặt nghèo hơn. Anh biết ơn vợ đã kiềm chế được mình, nhưng mỗi lần nghe những lời đay đá của cô nàng, anh cứ muốn cãi lại.
Trời càng lúc càng nắng gắt. Hai vợ chồng sống với nhau qua mùa hè dưới mái ngói râm ran. Dường như họ gặp nhau ở đây để ngủ và ăn cơm, còn thì suốt ngày chị chạy về nhà mẹ, anh lên ngồi thư viện. Kiếm một chỗ mát mà làm việc, chứ giam mình ở đây mà chết thiêu à? Thường thường buổi trưa, chị về sớm, nấu cơm, chùi nhà. Ban đầu thì phân công mỗi người phụ trách mỗi ngày; nhưng dần dà do phân công tự nhiên và do sự vụng về của anh, việc hậu cần lại về cả chị. Anh lại có tính đãng trí, hay về trễ. Nhiều hôm chị dọn cơm ăn xong đi nghỉ rồi, anh mới mò về lục bát chén. Những lần như thế, anh lặng lẽ ăn xong, rửa dọn lấy, rồi đến ngồi ở mép giường; biết vợ chỉ vờ ngủ để nén giận, anh chỉ ghé lưng nằm ở mép chiếu, thiếp đi. Khí trời bức bối làm anh mệt nhừ, uể oải.
Cũng có lúc anh đưa tay nắm tay vợ tức thì bị hất ra tàn nhẫn. Nước mắt chị ứa ra, tủi thân:
- Có bữa cơm nhà, anh cũng quên!
- Nào anh cố ý về trễ đâu… Ngồi ở thư viện, đang đọc sách thì thằng Sơn rủ đi uống ly cà phê đá. Ngồi ở câu lạc bộ thể thao, gió thổi mát quá, hứng chí nói đôi ba câu chuyện rồi quên…
- Thì đúng là quên!
Chị vừa nói vừa khóc thút thít, khóc nhỏ nhỏ chứ không dám nấc to vì sợ hai phòng bên nghe tiếng. Thế là mất luôn giấc ngủ trưa… Đến khi ngoài cổng cơ quan đã có tiếng kẻng báo hiệu giờ làm việc, chị uể oải ngáp dài, úp mặt vào ngực anh:
- Anh ạ, em chỉ mong cho xong cái mùa hè chết tiệt này cho rảnh.
- Ừ, thì anh cũng chỉ mong thế!
Rồi mùa hè chết tiệt ấy trôi qua. Mùa đông đến. Trời lạnh, mưa nhiều nhưng dù sao cái rét vẫn dễ chịu cho những cặp vợ chồng mới cưới hơn. Vào khoảng tháng 11, cửa hàng có về một loạt quạt máy, nhưng đúng dịp ấy anh phải về Quy Nhơn thăm ông cụ ốm nặng. Chị phải chuẩn bị tiền cho anh về nhà, thêm nữa trời đang rét thì nhu cầu quạt cũng chưa cấp bách lắm, vay mượn làm gì cho phiền ra.
Mùa xuân. Những con én thỉnh thoảng bay về làm tổ dưới mái ngói đỏ. Rồi hết mùa, chim bay đi. Lại những đêm nóng râm ran, lại tiếng thằn lằn chắt lưỡi trên đầu tường. Lại mỗi lần từ lớp học về, anh gặp vợ quần xắn móng lợn, tóc túm một túm sau gáy, hí hoáy ngồi thổi lửa ngoài sân nắng.
Chiếc ruy băng hồng lồng quanh khung kính trái tim nay đã bị bụi đóng, bẩn quá nên chị rút ra và định thay bằng sợi khác nhưng tất bật những việc gì rồi chị cũng quên đi. Chiếc giỏ tre xinh xinh cũng mốc và gãy nan rồi anh đã cho nó vào bếp. Thời gian qua cái gì chẳng hư, chẳng cũ.
Âu đó cũng là quy luật bình thường!
Chỉ có một vật y nguyên như cũ: chiếc ghế nõn nà ngày nào anh đóng để dành cho chiếc quạt tương lai. Nó vẫn đứng đó trống trải và kiên nhẫn.
Những cơn giận hờn trẻ con đã qua dần. Bây giờ sau mỗi lần gây gổ, chị không còn khóc thút thít rồi áp má xuống lồng ngực nhớp nháp mồ hôi của anh nữa. Chị ra vẻ ta đây, nín thinh, khinh khỉnh. Cái im lặng ngột ngạt như trời trước cơn giông. Chuyện đó cũng trở thành bình thường, bình thường đến nỗi nhiều khi anh cũng không buồn để ý xem chị giận gì.
Câu chuyện chỉ trở thành bất bình thường vào một buổi trưa, khi chị từ hàng thịt trở về với giỏ giò sườn lủng lẳng trước ghi đông. Anh còn lo sửa cái bếp dầu - cái bếp dầu quỷ quái, cứ không chịu bắt lửa cho! Đang loay hoay thì anh nghe vợ la thất thanh:
- Trời ơi, giờ này mà anh còn sửa bếp dầu! Sao không bắc bếp củi cho rồi làm thế này đời nào mới có cơm.
- Thì thong thả nào, muốn củi thì có củi, làm gì mà như chết tới nơi!
- Tôi cũng sắp chết đói đây, anh tưởng sắp hàng từ năm giờ sáng đến giờ này còn khỏe lắm chắc? Biết thế anh đi mua cho rảnh, để tôi nấu nướng cho xong. Cứ giành ở nhà, bây giờ đổ vạ ra đấy!
- Này, vừa vừa chứ, thấy người ta nhịn lại cứ làm tới…
Anh càu nhàu, ngước lên nhìn vợ thấy chị phờ phạc, tóc bơ phờ vì gió, nước da rám nắng, trông thật nản. Chị cũng nhìn anh: dường như trong mắt anh có một thoáng gì gớm ghiếc, bất mãn, đố kỵ; chị nhớ ra là mình đã tàn phai đi so với ngày mới về đây… và chị cay xè hai mắt. Tự nhiên, chị thốt ra những lời cay độc:
- Thôi, không cần! Anh bây giờ còn xem tôi ra gì, để thời giờ, tâm tư mà o bế cô này, cô nọ, chứ tôi là cái gì!
- Ơ cái cô này hay nhỉ? Anh quắc mắt. Cô nói cô này cô nọ là nói quạnh nói khóe những chuyện gì đây? Đừng có hàm hồ, ăn nói vô căn vô cớ…
Trong óc chị hiện ra những hình bóng đàn bà đâu đâu đã đi qua đời anh từ cái thuở xa xăm xa tít nào. Cơn đồng bóng chợt nổi lên, chị vùng vằng ném giỏ thịt xuống đất.
Không may cho chị. Chị có định ném vào anh cho cam? Nhưng đúng lúc đó, anh đang ngồi xổm trên nền nhà chợt đứng vụt dậy, hứng trọn cả giỏ sườn, mở, thịt làm hoen cả chiếc áo trắng. Trời, tai vách mạch rừng, ở khu tập thể này làm gì dấu được ai một ly. Chỉ mấy hôm sau, cô Diệu ở bếp ăn đã đi kháo với tổ cấp dưỡng:
- Này, cái nhà chị Loan ở nhà D1 trông vậy mà đáo để lắm cơ. Đổ cả rổ thịt lên đầu chồng… cái ông Tuấn cũng tốt nhịn thật!
- Thực hả cô; đầu đuôi ra sao? Mấy cô gái trẻ đang nhặt rau ngẩng lên, hiếu kỳ. Thế là cả tuần sau cả khu tập thể đều hay. Ông Nghĩa khét tiếng sợ vợ, cũng lắc đầu bảo bạn:
- Thằng Tuấn dở. Cãi cọ thế nào mà để vợ đổ ụp cả rổ lòng heo nhoe nhoét lên đầu. Vợ tôi mà thế thì thôi, bãi!
Cả hai người cười ngất khi tưởng tượng ra hình ảnh Tuấn với những mảnh tim, gan, phèo, phổi  bê bết trên đầu, trên tóc.
Trong khi mọi người cười đùa, thì chị cụp mặt xuống. Chị ngượng. Chị không dám nhìn ai nữa. Chị thương chồng, ngượng với chồng, rồi phát tức lên với chồng. Chị không bao giờ nhìn anh bằng con mắt như xưa nữa!
Bây giờ thì chị ngồi đây, trước chiếc va ly đã sửa soạn xong. Đêm qua, anh đã lẳng lặng xếp hết áo quần, vật dụng vào đó, trong lúc chị nằm dài trên giường, lơ đãng xem mấy hình hoạt họa trong tờ tạp chí tiếng Nga. Ngày mai anh sẽ lên đường chuyển công tác vào Quy Nhơn. Từ khi anh viết đơn cho đến khi được chấp thuận chuyển, chị không hé răng can thiệp một lời nào. Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt, nhìn nhau đã thấy hết tốt, hết đẹp thì còn đeo đẳng nhau làm chi nữa? Mấy hôm nay bạn bè đến tạm biệt anh, kẻ thì rủ đi nhậu người gửi thức này, thức nọ. Anh tiếp bạn bè vui vẻ, bình tĩnh, lúc hứng chuyện lên anh cười ha hả vô tư. Nghe tiếng, cười, chị thấy se se lòng… Nhưng rồi chị gạt đi, cứng rắn nghĩ thầm “mình chỉ được cái tình cảm vớ vẩn, hão huyền! Y làm gì mặc xác y chứ!”
Chiếc va ly nằm đây. Lần đầu tiên trong đời, anh tự xếp hành trang, không cần nhờ đến chị. Vĩnh viễn anh không cần đến chị nữa. Hơn một năm nay, chị để ý thấy mỗi lần đi công tác xa về, sắc mặt anh hồng hào tươi tỉnh hẳn lên. Rõ ràng căn phòng này chỉ còn là một cái nhà giam ngột ngạt đối với anh. Căn phòng này, cuộc sống này, và chị…
Hôm nay, trước mặt chị, chiếc ghế đẩu trắng xinh xinh vẫn còn đó, trống trơn, lạc lỏng như một giấc mơ không thành. Chị nhếch mép cười: bao nhiêu năm qua, tiền tiêu phí vào những việc đâu đâu mà vẫn không sắm nổi chiếc quạt máy. Không, không phải chỉ là chuyện chiếc quạt, mà còn là ý muốn thiết tha tạo điều kiện để sống hạnh phúc với nhau. Chẳng biết nếu những mùa hè đừng nóng nực, bữa cơm ngon ngọt hơn, hay có thêm chiếc quạt máy, thì cái gia đình nhỏ này sẽ ra sao? Chà, thôi hơi đâu mà nghĩ vớ, nghĩ vẩn nữa, chuyện gì đã qua, cho nó trôi qua, tiếc nuối làm gì?
Tiếng động ở cửa làm chị sực tỉnh. Anh bước vào, cùng với một người bạn. “A, anh Sơn!”
- Sơn đấy. Ngày mai tôi đi, anh ấy rủ đi ăn tối cho vui.
Anh bảo vợ, vừa nói vừa liếc nhìn vẻ mặt chị.
- Ừ, thì đi. (Trong bụng chị thầm nghĩ: vô tình vô nghĩa đến thế thì thôi, còn có hôm cuối cùng, cũng bỏ đi ăn nơi khác!) Đi cho vui chứ còn có một hôm nay, anh em chưa chào hết. Mua được vé tàu chưa?
- Rồi. Phờ cả người, vào ngồi chơi tí đã Sơn. Ngồi một lát cho khỏe rồi lại đi, chứ ở đây nóng lắm.
Sơn bước vào ngồi cạnh bàn, uống nước, nhìn quanh:
- Chỗ này đã lấy gì làm nóng. Chung quanh thoáng, có đâu như bên nhà mình bị cả dãy buynh đinh chắn ngang thành ra cả ngày không được tí gió nào.
Chị lắc đầu, pha thêm nước vào bình trà:
- Anh cứ thử ở đây ít hôm, rồi biết mùi cái mái ngói với bốn bức vách này.
- À, đó là lỗi tại hai ông bà chứ. Đây nóng là tại xáp nắng. Trồng ít cây xanh hay hoa leo là nó mát ngay chứ gì.
Chị đưa mắt nhìn anh, và bắt gặp mắt anh nhìn chị. Thực đơn giản. Nhưng lâu lắm rồi, anh chị chẳng nhớ ra điều đó.
 “Này nhé, trước sân kia, trồng vài cây vũ sữa hay trứng gà gì đấy thì tha hồ mà mát, lại có chỗ mắc võng. Vài năm là có bóng râm ngay thôi. Không thì xuống nhà mình, bứng lên vài mụt hoa giấy…”
Chị lại nhìn anh, và vẫn gặp mắt anh nhìn chị. Một phút trôi qua, anh nhìn đi nơi khác. Sau một thoáng xao xuyến, họ lại trở về với vẻ lạnh lẽo mọi ngày.
Chị cúi đầu, im lặng, rồi khe khẽ bảo:
- Có lẽ bây giờ mà trồng thì muộn mất rồi, anh Sơn ạ. Vô ích.
Sáng hôm sau anh đi. Chị cũng tiễn anh tới sân ga.
Khi còi tàu rít lên và những khung cửa sổ dần dần dang xa khỏi tầm mắt, chị trở về, nằm dài trên chiếc giường nhỏ. Một cảm giác lạ lùng dâng lên trong tim chị, không rõ là buồn hay vui, trống trải hay là thanh thản. Căn phòng bây giờ như khác đi. Lúc trước, chị thấy nó chật chội, tù túng, còn bây giờ thì rộng và nhạt nhẽo. Hơi nóng râm ran vẫn quyện lấy bầu không khí nho nhỏ giữa bốn bức tường xây và mái ngói.
Ôi, cái nóng, cái nóng vẫn đeo đẳng chị từ lúc về đây cho tới lúc chia lìa.
Vươn vai, chị kẹp lại tóc, bước ra hiên. Trong khu tập thể, mọi người đã về, ai nấy lo sửa soạn bữa cơm, tiếng cười đùa vang lên, huyên náo. Với tay lấy chiếc gáo, chị múc nước định rửa mặt cho đỡ nóng.
Chợt chị dừng lại.
Trước hiên, chẳng biết ai đã giăng mấy sợi dây thép mỏng mảnh từ mái nhà xuống tận thềm. Mấy mụt hoa giấy yếu đuối, xanh xanh đang dựa vào đầu giây, ẻo lả. Ai đó đã trồng ở đây một hàng cây non từ sớm tinh mơ…
Ngẩng lên, chị thấy một mảnh giấy gấp tư giắt ở cái mắc áo mưa trước cửa.
Hồi hộp, chị mở bức thư:
 “Loan,
Có lẽ đã xa lắm rồi, cái thời mà người ta có thể sống không cần chút tiện nghi nhỏ nào. Nhưng bây giờ anh mới sực nhớ ra, điều quan trọng không phải là mình không có chiếc quạt máy. Điều quan trọng là mình đã nghĩ đến nhau quá ít… Anh cũng nghĩ như em, bây giờ mà làm một cái gì thì đã quá muộn. Nhưng có lẽ, muộn còn hơn không.
Anh đi, hy vọng giữa chúng mình vẫn còn một cái gì đó tươi xanh, và mong có bóng mát cho em trong cuộc sống - chút bóng mát đủ cho mình có thể nhìn vào mắt nhau… nếu một ngày kia anh còn trở lại…”
 “Không, không…” Chị run lên. Nước mắt ràn rụa trên hai má, chị thấy mơ hồ quanh mình hình ảnh căn phòng ngày nào, nho nhỏ, sạch sẽ. Chiếc gương soi thắt nơ trên vách, chiếc giỏ tre xinh xinh đầy hoa. Rồi chị tưởng chừng bên tai tiếng còi tàu rít lên, và những khung cửa sổ dần dần dang xa, dang xa…
TRẦN THÙY MAI
(nguồn: TCSH số1-06.1983)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.