Món quà đêm giao thừa

14:50 14/01/2012
Nhà văn Phillip Van Doren Stern sinh ra tại Wyalusing, bang Pennsylvania và lớn lên tại Brooklyn, New York. The Greatest Gift là truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông. Phillip Van Doren Stern đã từng gửi câu truyện này đi nhiều báo và tạp chí nhưng không nơi nào nhận đăng. Cuối cùng ông cho in truyện lên 200 tấm thiệp năm mới và phát cho bạn bè.

Một cảnh trong phim "It’s a wonderful life" - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if !mso]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Câu truyện lan rộng, được nhiều người sao chép và gửi cho nhau nhân dịp năm mới. Đạo diễn Frank Capra sau khi đọc truyện đã xúc động thốt lên: “Tôi đã dành cả đời mình để tìm ra một câu chuyện hay như thế này”. Sau đó, đạo diễn Frank Capra đã chuyển thể câu chuyện thành bộ phim có tên: Cuộc sống tuyệt vời – It’s a wonderful life. Bộ phim đã được đề cử hàng loạt giải Oscar danh giá và nằm trong danh sách 100 bộ phim kinh điển hay nhất mọi thời đại của điện ảnh Mỹ.



PHILLIP VAN DOREN STERN


Món quà đêm giao thừa


Thị trấn nhỏ lấp lánh ánh đèn trang trí đêm Giao thừa. Nhưng George Pratt không chú tâm. Anh cúi mình qua thành cầu nhìn xuống dòng nước giá buốt, tự nhủ: “Nếu trầm mình dưới dòng nước kia thì bao lâu sẽ chết?”.

Bỗng từ phía sau có một giọng nói vang lên: “Nếu là cậu, tôi sẽ không làm vậy đâu”.

George quay lại nhìn. Đó là một ông lão lạ mặt, hình dáng nhỏ nhắn với cái cằm nhẵn nhụi ửng hồng trong băng giá mùa đông. George thắc mắc: “Làm gì cơ?”. Ông lão cười nhạt: “Làm cái điều mà cậu đang nghĩ trong đầu ý”. George ngạc nhiên: “Làm sao ông biết được tôi đang nghĩ gì trong đầu?” Ông lão trầm giọng: “Biết chứ. Đó là công việc của tôi mà”.

George ngắm nhìn ông lão từ đầu đến chân. Không có gì nổi trội. Phục trang hết sức bình thường. Ông ta đeo một cái túi. Có vẻ đó là túi mang đồ mẫu của một người bán hàng.

Ông lão chậm rãi: “Mọi việc giờ ổn thỏa rồi. Cậu nên về nhà”. George nổi cáu: “Ông biết gì mà bảo là ổn thỏa?” Ông lão nghiêm giọng: “Nếu cậu muốn tự tử vào đúng đêm Giao thừa, cậu nên nghĩ đến Mary và cả mẹ cậu nữa!”

George ngạc nhiên. Ông lão đã nói trúng tim đen của anh. George thở dài: “Nếu ông biết thêm một chút về tôi, chắc ông chẳng cản tôi đâu”. Ông lão cười: “Thôi nào, cậu có một công việc tử tế, vợ xinh và con ngoan. Cậu còn trẻ, khỏe, và…”.

George ngắt lời: “Và tôi chán mọi thứ đến tận cổ. Bao năm rồi tôi chỉ là một gã nhân viên quèn, làm một công việc tẻ nhạt ngày này qua ngày khác. Biết bao dự định cho tương lai, cho gia đình mà rồi tôi chẳng làm gì nên hồn. Tết năm nay tôi còn chẳng có tiền mua quà cho người thân trong gia đình. Tôi chỉ là một kẻ vô dụng. Ước gì tôi chưa bao giờ có mặt trên đời này!”

Ông lão nghiêng đầu: “Cậu nói gì cơ?” George đanh giọng: “Ước gì tôi chưa bao giờ có mặt trên cõi đời này. Thế đấy!” Ông lão nói, giọng vui vẻ: “Được thôi, nếu đó là điều cậu mong muốn. Cậu chưa bao giờ sinh ra trên cõi đời này. Ha! Ha! Ha!” George tức giận: “Đồ điên”. Nói đoạn anh quay người đi nhanh về phía trung tâm thị trấn.

Ông lão đuổi theo, nắm lấy tay George và quàng lên vai cậu cái túi: “Cậu nên mang theo thứ này”. George bực mình: “Để làm gì? Tôi có phải là nhân viên bán hàng như ông đâu?” Ông lão kiên nhẫn: “Thôi nào! Nếu chỗ nào có vẻ khó vào, cậu cứ bảo rằng đây là quà tặng miễn phí của công ty. Nhớ là MIỄN PHÍ. Người ta sẽ dễ cho cậu vào nhà chứ không đóng cửa và đuổi cậu đi như một người lạ mặt”. George tức giận đẩy cái túi về phía ông lão: “Làm gì có chuyện đó. Ai trong cái thị trấn nhỏ bé này chẳng biết mặt tôi”. Ông lão cười: “Cứ cầm theo đi. Không chết ai đâu mà sợ!”

Nói đoạn ông lão ném cái túi về phía George. Anh theo quán tính giơ tay bắt lấy. Nhìn xung quanh, ông lão đã biến mất. Có lẽ ông ta đã trốn vào mấy lùm cây dọc sông. George không muốn chơi trò trốn tìm với ông già. Trời ngày càng tối. Gió thổi ngày một lạnh. Anh cầm theo cái túi, đi thẳng về phía trung tâm thị trấn.

*

George đi ngang qua ngân hàng nơi anh làm việc. Đã có một sự thay đổi lớn. Tòa nhà của ngân hàng giờ trông tối tăm và cũ nát thảm hại. Trước cửa vào là một tấm biển đề: “Bán hoặc cho thuê. Liên hệ: Văn phòng Môi giới địa ốc Jim Silva”.

George kinh ngạc. Tại sao lại có chuyện này? Chắc đây là trò đùa của một đứa nhóc tinh nghịch nào đấy. Nhưng sao cửa sổ của tòa nhà có vẻ cũ kỹ như đã lâu lắm rồi không có người lau dọn? George bước sang đường gõ cửa vào văn phòng của Jim Silva.

Jim hơi ngạc nhiên vì có người vào nhà vào lúc gần Giao thừa: “Tôi có thể giúp gì cho anh?” George thở gấp: “Ngân hàng! Chuyện gì xảy ra với nó vậy?” Giọng Jim như có phần hy vọng: “Anh muốn thuê lại nó hay sao?” George hồi hộp: “Ý anh là ngân hàng này đóng cửa rồi à?” Jim trầm giọng: “Gần 10 năm nay rồi. Phá sản! Anh là người mới đến đây à?”

George dựa tay vào tường nói yếu ớt: “Tôi từng ở đây. Khi đó ngân hàng còn có vẻ ổn. Tôi biết vài người làm việc ở đó”. Jim hất hàm: “Anh có biết gã Marty Jenkins không?” George hơi ngạc nhiên. Marty có bao giờ làm ngân hàng đâu nhỉ? Hồi trước, anh với gã cùng xin vào một vị trí ở ngân hàng. Người được nhận là anh. Còn Martin đã đi làm chỗ khác. George nhíu mày: “Marty Jenkins? Có lẽ tôi đã từng nghe qua cái tên này”.

Jim nói giọng giận dữ: “Vậy chắc hẳn anh đã biết vụ hắn biển thủ 500.000 đô la của ngân hàng. Vụ việc vỡ lở. Ngân hàng khánh kiệt rồi phá sản. Mọi người ở đây ai nấy đều bị ảnh hưởng” Rồi Jim liếc nhìn George: “Anh mà biết hắn giờ ở đâu thì báo cho tôi. Tôi bị hắn lừa mất một khoản tiền lớn. Ai nấy đều muốn tóm cổ hắn”. George băn khoăn: “Marty Jenkins có một người anh trai cơ mà? Tên là Arthur? Sao mọi người không hỏi anh ý?”

Jim lắc lắc đầu: “Arthur à? Hắn cũng không biết Marty ở đâu. Hắn cũng bị mất tiền. Giờ hắn là một thằng cha nát rượu. Suốt ngày đánh chửi vợ con. Khổ thân, vợ hắn là một người phụ nữ tốt…”.

George cảm thấy tim mình thắt lại. Ngày trước, anh và Arthur cùng theo đuổi Mary. Anh nói như bàng hoàng: “Vợ của Arthur ư?” Jim gật gật đầu: “Đúng rồi. Cô ta tên là Mary Thatcher. Ê này, anh chạy đi đâu đấy hả???”

*

Nghe xong cái tên Mary Thatcher, George vội chạy ra khỏi cửa. Anh muốn chạy thẳng về nhà xem mọi thứ ra sao. Rồi anh băn khoăn. Chắc tại mình chưa bao giờ sinh ra nên Mary đã cưới Arthur. Anh chưa sẵn sàng đối diện nói chuyện với nàng ở vai trò nàng là vợ một người khác.

Đôi chân anh như vô định đưa anh về ngôi nhà của cha mẹ. Bên ngoài cửa đèn nến trang trí sơ sài. Bỗng nhiên một cái bóng đen to lớn nhào ra: “Gâu! Gâu! Gâu!” Con chó Brownie. Nó không nhận ra anh, sủa dữ dội. George đưa tay lên miệng suỵt suỵt: “Này, tao đây mà!” Brownie mặc kệ, nó chồm lên hàng rào. Bên trong nhà cha của George chạy ra tóm lấy con chó: “Có chuyện gì thì vào hẳn bên trong nhà đi. Con chó này không thích người lạ đâu”.

George hụt hẫng. Cha anh không nhận ra anh. Đương nhiên rồi. Anh chưa bao giờ sinh ra mà. Bước vào cửa, anh lục túi móc ra một cái bàn chải hướng về phía mẹ, giọng ngẹn lại: “Thưa mẹ… bà. Đây là món quà từ công ty chúng tôi. Quà miễn phí”. Mẹ anh cười ấm áp: “Tốt quá. Chưa bao giờ tôi nhận được quà miễn phí thế này. Cậu ngồi xuống đây! Trời rét mướt đêm Giao thừa này mà vẫn còn phải đi làm à?”

“Vâng!” George đáp, ngồi xuống quan sát xung quanh. Căn phòng thân thuộc giờ như có một cái gì đó khác lạ. Cha anh đã bước vào trong nhà đóng cửa lại nhìn anh thẫn thờ: “Cậu trông giống thằng Harry thật đấy!”

Harry? Đó chính là cậu em trai của George. Giờ George mới nhận ra sự khác lạ. Đó là ở bức ảnh treo trên tường. Bức ảnh đó chụp hai anh em nhân lần sinh nhật thứ 16 của Harry. Giờ trong bức ảnh chỉ còn Harry đang mỉm cười. George chỉ tay vào bức ảnh hỏi: “Đây là Harry, con trai của ông bà phải không?”

Gương mặt của mẹ anh dường như có một đám mây bao phủ. Bà chỉ gật đầu chứ không đáp lại. Không gian chùng xuống. George phá tan sự tĩnh lặng: “Mấy tháng trước cháu đã gặp cậu ta ở đâu đó rồi thì phải”. Mẹ anh quay mặt giấu đi một tiếng nấc. Cha anh quàng tay quanh vai mẹ anh vỗ vỗ: “Chắc cậu nhầm rồi. Thằng Harry đã chết từ lâu rồi. Nó bị chết đuối đúng vào hôm nó chụp bức ảnh đó”.

George chợt nhớ ra. Hôm hai anh em đi chụp ảnh, trên đường về, Harry trượt chân ngã xuống nước. George đã cứu em trai khỏi chết đuối. Nhưng giờ anh chưa bao giờ sinh ra. Nghĩa là không có ai ở đó để cứu Harry.

Không thể tin được em trai mình đã chết. George nghẹn ngào: “Cháu phải đi rồi. Chúc hai bác năm mới hạnh phúc”.

*

George đi như chạy trốn, bỏ lại tiếng sủa của con Brownie đằng sau. Anh bước vô định về phía nhà mình. Anh muốn gặp Mary. Anh muốn biết nếu không có mình, cuộc sống của nàng sẽ ra sao? George ngập ngừng rồi gõ cửa. Có tiếng quát trẻ con. Rồi Mary bước ra. George cố lấy giọng bình tĩnh: “Thưa chị. Công ty chúng tôi xin tặng chị một món quà nhân ngày Tết”. Mary im lặng. George tiếp tục: “Quà hoàn toàn miễn phí. Xin chị cho vào nhà hỏi vài câu”.

Cánh cửa mở rộng. Giữa căn nhà vẫn là chiếc ghế sofa đắt tiền. Đó là chiếc ghế sofa màu xanh lơ mà Mary dành dụm tiền mua sau ngày cưới. George đứng bần thần, tay run run lần trong túi ra một cái bàn chải màu xanh và đưa cho Mary.

Mary cầm lấy chiếc bàn chải, ngạc nhiên: “Chiếc bàn chải này đẹp thật. Quà miễn phí à?” George gật đầu: “Đây là món quà công ty tôi muốn tri ân đến khách hàng. Tôi, tôi muốn hỏi…”.

Đúng lúc đó, hai đứa trẻ con chạy ào từ bếp ra. Thằng bé con cầm khẩu súng nhựa gào lên: “Nó ăn gian mẹ ơi. Con bắn nó trúng đạn rồi mà nó không chịu chết”. Thằng bé trông giống hệt Arthur. Nó quay súng chĩa vào George: “Giơ tay lên. Pằng! Pằng! Chết này! Chết này!”

Đúng lúc đó, có tiếng bước chân nặng nề. Cửa mở tung. Chính là Arthur Jenkins. Lũ trẻ con có vẻ sợ hãi lùi lại. Arthur mặt mũi đỏ gay, nồng nặc hơi rượu nhìn George: “Ai đây?” Mary vội phân trần: “Đó là người bán bàn chải. Anh ta tặng quà Tết”. Arthur rít lên trong họng: “Bán bàn chải? Bảo hắn biến đi”. Nói đoạn, Arthur thả mình gác chân lên chiếc ghế sofa. Bùn bẩn rơi xuống lả tả: “Nhà này không cần bàn chải! Càng không cần đứa bán bàn chải”.

Mary nhìn George như muốn cầu xin anh đi cho nhanh. George ngậm ngùi cúi đầu đi ra phía cửa. Đứa con của Arthur cầm khẩu súng nhựa chĩa vào anh hét to: “Pằng! Pằng! Chết đi! Chết đi!”.

*

George lầm lùi đi trên con phố lạnh. Thằng bé có lẽ đúng. Mình thật đáng chết. Tại sao mình lại cầu xin một lời ước ngu xuẩn đến vậy. Anh vô định đi về phía chiếc cầu. Trong sương mờ, cái bóng của ông lão đứng im lìm. George mừng rỡ vội tóm lấy ông lão: “Đủ rồi! Sao ông lại đưa tôi vào trò chơi quái đản này?”

Ông lão nhướng mày: “Tôi đưa cậu vào? Chính cậu ước cơ mà? Giờ cậu đã trở thành người tự do nhất trên thế giới này. Không cha mẹ, không vợ con, không người thân, không trách nhiệm, vô lo, vô nghĩ. Đó chẳng phải là điều cậu mong muốn là gì?”

George run run giọng: “Tôi thật ngu xuẩn. Tôi đã làm hệ lụy đến bao nhiêu người. Hãy đưa mọi chuyện trở lại như ban đầu, xin ông”. Ông già chậm rãi: “Cậu đã có một món quà lớn nhất. Đó là cuộc sống. Vậy mà cậu lại định vứt bỏ nó đi”.

Tiếng chuông nhà thờ vang lên. Đã đến thời khắc giao thừa. George quỳ sụp xuống: “Tại sao ông lại làm thế. Làm vậy khác nào giết người?” Ông già lạnh lùng: “Giết người? Phải nói là tự tử chứ? Cậu đã giết chính cậu cơ mà?”

Tiếng chuông vẫn vang lên. George nghẹn giọng: “Có cách nào cứu vãn được không?” Ông già nhẹ nhàng: “Hãy nhắm mắt vào và cầu nguyện. Trước thời khắc giao thừa, có thể điều kỳ diệu vẫn xảy ra”. George nhắm mắt lại. Chuông điểm những tiếng cuối cùng. Cả thị trấn hò reo. Tiếng pháo nổ tưng bừng. George mở mắt. Ông già đã biến đâu mất tự lúc nào.

*

George vội chạy về phía thị trấn. Thấy anh hớt hải, người môi giới địa ốc Jim Silva vẫy tay: “George, sao lại ở đây giờ này? Không ở nhà à?” George đáp: “Tôi định qua xem ngân hàng có ổn không?” Jim xua xua tay: “Không cần đâu. Tôi vừa đi qua đó. Mọi thứ ổn cả. Đèn trang trí bật rồi. Đẹp lắm”.

George vội nói chúc mừng năm mới rồi chạy về phía nhà cha mẹ. Con chó già Brownie vội lao ra liếm tay anh mừng rỡ. Cửa mở. Anh vội ôm chầm lấy cậu em Harry, hôn bố mẹ rồi chúc mừng năm mới mọi người.

Không khí giao thừa thấm đẫm đường phố. Ngôi nhà nhỏ bé của anh hiện lên ấm áp. Anh vội lao vào mở cửa gọi hối hả: “Mary ơi! Các con ơi!” Vợ anh bước xuống suỵt suỵt: “Các con ngủ rồi. Anh đi đâu cả tối nay thế?” George vội chạy lên cầu thang, ôm chầm lấy vợ và hôn nàng nồng nàn. Rồi anh bước vào trong phòng, ngắm nhìn hai đứa con đang say giấc như hai thiên thần nhỏ bé.

Hai vợ chồng dắt nhau xuống phòng khách. George thả mình xuống chiếc ghế sofa, ôm Mary vào lòng dịu dàng: “Chút nữa thì anh đã mất em. Em không biết chuyện gì đã xảy ra đâu”. Mary ngước nhìn: “Chuyện gì?”

George chống tay xuống chiếc sofa, hắng giọng định kể lại mọi chuyện kỳ lạ tối nay. Bỗng cổ họng anh như đóng băng. Tay anh vừa chạm vào một vật quen quen.

Anh đưa tay lên nhìn. Đó là một chiếc bàn chải. Chiếc bàn chải màu xanh. Một món quà đêm Giao thừa. Món quà vĩ đại nhất.  

HOÀNG TÙNG (lược dịch)
(SH275/1-12)








Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.

  • PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

  • SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)

  • ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.

  • DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.

  • MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.

  • HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.

  • GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.

  • VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.

  • NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.

  • S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

  • JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.

  • KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.

  • ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

  • KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.

  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.

  • YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.

  • KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.

  • KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.