Món quà đêm giao thừa

14:50 14/01/2012
Nhà văn Phillip Van Doren Stern sinh ra tại Wyalusing, bang Pennsylvania và lớn lên tại Brooklyn, New York. The Greatest Gift là truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông. Phillip Van Doren Stern đã từng gửi câu truyện này đi nhiều báo và tạp chí nhưng không nơi nào nhận đăng. Cuối cùng ông cho in truyện lên 200 tấm thiệp năm mới và phát cho bạn bè.

Một cảnh trong phim "It’s a wonderful life" - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if !mso]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Câu truyện lan rộng, được nhiều người sao chép và gửi cho nhau nhân dịp năm mới. Đạo diễn Frank Capra sau khi đọc truyện đã xúc động thốt lên: “Tôi đã dành cả đời mình để tìm ra một câu chuyện hay như thế này”. Sau đó, đạo diễn Frank Capra đã chuyển thể câu chuyện thành bộ phim có tên: Cuộc sống tuyệt vời – It’s a wonderful life. Bộ phim đã được đề cử hàng loạt giải Oscar danh giá và nằm trong danh sách 100 bộ phim kinh điển hay nhất mọi thời đại của điện ảnh Mỹ.



PHILLIP VAN DOREN STERN


Món quà đêm giao thừa


Thị trấn nhỏ lấp lánh ánh đèn trang trí đêm Giao thừa. Nhưng George Pratt không chú tâm. Anh cúi mình qua thành cầu nhìn xuống dòng nước giá buốt, tự nhủ: “Nếu trầm mình dưới dòng nước kia thì bao lâu sẽ chết?”.

Bỗng từ phía sau có một giọng nói vang lên: “Nếu là cậu, tôi sẽ không làm vậy đâu”.

George quay lại nhìn. Đó là một ông lão lạ mặt, hình dáng nhỏ nhắn với cái cằm nhẵn nhụi ửng hồng trong băng giá mùa đông. George thắc mắc: “Làm gì cơ?”. Ông lão cười nhạt: “Làm cái điều mà cậu đang nghĩ trong đầu ý”. George ngạc nhiên: “Làm sao ông biết được tôi đang nghĩ gì trong đầu?” Ông lão trầm giọng: “Biết chứ. Đó là công việc của tôi mà”.

George ngắm nhìn ông lão từ đầu đến chân. Không có gì nổi trội. Phục trang hết sức bình thường. Ông ta đeo một cái túi. Có vẻ đó là túi mang đồ mẫu của một người bán hàng.

Ông lão chậm rãi: “Mọi việc giờ ổn thỏa rồi. Cậu nên về nhà”. George nổi cáu: “Ông biết gì mà bảo là ổn thỏa?” Ông lão nghiêm giọng: “Nếu cậu muốn tự tử vào đúng đêm Giao thừa, cậu nên nghĩ đến Mary và cả mẹ cậu nữa!”

George ngạc nhiên. Ông lão đã nói trúng tim đen của anh. George thở dài: “Nếu ông biết thêm một chút về tôi, chắc ông chẳng cản tôi đâu”. Ông lão cười: “Thôi nào, cậu có một công việc tử tế, vợ xinh và con ngoan. Cậu còn trẻ, khỏe, và…”.

George ngắt lời: “Và tôi chán mọi thứ đến tận cổ. Bao năm rồi tôi chỉ là một gã nhân viên quèn, làm một công việc tẻ nhạt ngày này qua ngày khác. Biết bao dự định cho tương lai, cho gia đình mà rồi tôi chẳng làm gì nên hồn. Tết năm nay tôi còn chẳng có tiền mua quà cho người thân trong gia đình. Tôi chỉ là một kẻ vô dụng. Ước gì tôi chưa bao giờ có mặt trên đời này!”

Ông lão nghiêng đầu: “Cậu nói gì cơ?” George đanh giọng: “Ước gì tôi chưa bao giờ có mặt trên cõi đời này. Thế đấy!” Ông lão nói, giọng vui vẻ: “Được thôi, nếu đó là điều cậu mong muốn. Cậu chưa bao giờ sinh ra trên cõi đời này. Ha! Ha! Ha!” George tức giận: “Đồ điên”. Nói đoạn anh quay người đi nhanh về phía trung tâm thị trấn.

Ông lão đuổi theo, nắm lấy tay George và quàng lên vai cậu cái túi: “Cậu nên mang theo thứ này”. George bực mình: “Để làm gì? Tôi có phải là nhân viên bán hàng như ông đâu?” Ông lão kiên nhẫn: “Thôi nào! Nếu chỗ nào có vẻ khó vào, cậu cứ bảo rằng đây là quà tặng miễn phí của công ty. Nhớ là MIỄN PHÍ. Người ta sẽ dễ cho cậu vào nhà chứ không đóng cửa và đuổi cậu đi như một người lạ mặt”. George tức giận đẩy cái túi về phía ông lão: “Làm gì có chuyện đó. Ai trong cái thị trấn nhỏ bé này chẳng biết mặt tôi”. Ông lão cười: “Cứ cầm theo đi. Không chết ai đâu mà sợ!”

Nói đoạn ông lão ném cái túi về phía George. Anh theo quán tính giơ tay bắt lấy. Nhìn xung quanh, ông lão đã biến mất. Có lẽ ông ta đã trốn vào mấy lùm cây dọc sông. George không muốn chơi trò trốn tìm với ông già. Trời ngày càng tối. Gió thổi ngày một lạnh. Anh cầm theo cái túi, đi thẳng về phía trung tâm thị trấn.

*

George đi ngang qua ngân hàng nơi anh làm việc. Đã có một sự thay đổi lớn. Tòa nhà của ngân hàng giờ trông tối tăm và cũ nát thảm hại. Trước cửa vào là một tấm biển đề: “Bán hoặc cho thuê. Liên hệ: Văn phòng Môi giới địa ốc Jim Silva”.

George kinh ngạc. Tại sao lại có chuyện này? Chắc đây là trò đùa của một đứa nhóc tinh nghịch nào đấy. Nhưng sao cửa sổ của tòa nhà có vẻ cũ kỹ như đã lâu lắm rồi không có người lau dọn? George bước sang đường gõ cửa vào văn phòng của Jim Silva.

Jim hơi ngạc nhiên vì có người vào nhà vào lúc gần Giao thừa: “Tôi có thể giúp gì cho anh?” George thở gấp: “Ngân hàng! Chuyện gì xảy ra với nó vậy?” Giọng Jim như có phần hy vọng: “Anh muốn thuê lại nó hay sao?” George hồi hộp: “Ý anh là ngân hàng này đóng cửa rồi à?” Jim trầm giọng: “Gần 10 năm nay rồi. Phá sản! Anh là người mới đến đây à?”

George dựa tay vào tường nói yếu ớt: “Tôi từng ở đây. Khi đó ngân hàng còn có vẻ ổn. Tôi biết vài người làm việc ở đó”. Jim hất hàm: “Anh có biết gã Marty Jenkins không?” George hơi ngạc nhiên. Marty có bao giờ làm ngân hàng đâu nhỉ? Hồi trước, anh với gã cùng xin vào một vị trí ở ngân hàng. Người được nhận là anh. Còn Martin đã đi làm chỗ khác. George nhíu mày: “Marty Jenkins? Có lẽ tôi đã từng nghe qua cái tên này”.

Jim nói giọng giận dữ: “Vậy chắc hẳn anh đã biết vụ hắn biển thủ 500.000 đô la của ngân hàng. Vụ việc vỡ lở. Ngân hàng khánh kiệt rồi phá sản. Mọi người ở đây ai nấy đều bị ảnh hưởng” Rồi Jim liếc nhìn George: “Anh mà biết hắn giờ ở đâu thì báo cho tôi. Tôi bị hắn lừa mất một khoản tiền lớn. Ai nấy đều muốn tóm cổ hắn”. George băn khoăn: “Marty Jenkins có một người anh trai cơ mà? Tên là Arthur? Sao mọi người không hỏi anh ý?”

Jim lắc lắc đầu: “Arthur à? Hắn cũng không biết Marty ở đâu. Hắn cũng bị mất tiền. Giờ hắn là một thằng cha nát rượu. Suốt ngày đánh chửi vợ con. Khổ thân, vợ hắn là một người phụ nữ tốt…”.

George cảm thấy tim mình thắt lại. Ngày trước, anh và Arthur cùng theo đuổi Mary. Anh nói như bàng hoàng: “Vợ của Arthur ư?” Jim gật gật đầu: “Đúng rồi. Cô ta tên là Mary Thatcher. Ê này, anh chạy đi đâu đấy hả???”

*

Nghe xong cái tên Mary Thatcher, George vội chạy ra khỏi cửa. Anh muốn chạy thẳng về nhà xem mọi thứ ra sao. Rồi anh băn khoăn. Chắc tại mình chưa bao giờ sinh ra nên Mary đã cưới Arthur. Anh chưa sẵn sàng đối diện nói chuyện với nàng ở vai trò nàng là vợ một người khác.

Đôi chân anh như vô định đưa anh về ngôi nhà của cha mẹ. Bên ngoài cửa đèn nến trang trí sơ sài. Bỗng nhiên một cái bóng đen to lớn nhào ra: “Gâu! Gâu! Gâu!” Con chó Brownie. Nó không nhận ra anh, sủa dữ dội. George đưa tay lên miệng suỵt suỵt: “Này, tao đây mà!” Brownie mặc kệ, nó chồm lên hàng rào. Bên trong nhà cha của George chạy ra tóm lấy con chó: “Có chuyện gì thì vào hẳn bên trong nhà đi. Con chó này không thích người lạ đâu”.

George hụt hẫng. Cha anh không nhận ra anh. Đương nhiên rồi. Anh chưa bao giờ sinh ra mà. Bước vào cửa, anh lục túi móc ra một cái bàn chải hướng về phía mẹ, giọng ngẹn lại: “Thưa mẹ… bà. Đây là món quà từ công ty chúng tôi. Quà miễn phí”. Mẹ anh cười ấm áp: “Tốt quá. Chưa bao giờ tôi nhận được quà miễn phí thế này. Cậu ngồi xuống đây! Trời rét mướt đêm Giao thừa này mà vẫn còn phải đi làm à?”

“Vâng!” George đáp, ngồi xuống quan sát xung quanh. Căn phòng thân thuộc giờ như có một cái gì đó khác lạ. Cha anh đã bước vào trong nhà đóng cửa lại nhìn anh thẫn thờ: “Cậu trông giống thằng Harry thật đấy!”

Harry? Đó chính là cậu em trai của George. Giờ George mới nhận ra sự khác lạ. Đó là ở bức ảnh treo trên tường. Bức ảnh đó chụp hai anh em nhân lần sinh nhật thứ 16 của Harry. Giờ trong bức ảnh chỉ còn Harry đang mỉm cười. George chỉ tay vào bức ảnh hỏi: “Đây là Harry, con trai của ông bà phải không?”

Gương mặt của mẹ anh dường như có một đám mây bao phủ. Bà chỉ gật đầu chứ không đáp lại. Không gian chùng xuống. George phá tan sự tĩnh lặng: “Mấy tháng trước cháu đã gặp cậu ta ở đâu đó rồi thì phải”. Mẹ anh quay mặt giấu đi một tiếng nấc. Cha anh quàng tay quanh vai mẹ anh vỗ vỗ: “Chắc cậu nhầm rồi. Thằng Harry đã chết từ lâu rồi. Nó bị chết đuối đúng vào hôm nó chụp bức ảnh đó”.

George chợt nhớ ra. Hôm hai anh em đi chụp ảnh, trên đường về, Harry trượt chân ngã xuống nước. George đã cứu em trai khỏi chết đuối. Nhưng giờ anh chưa bao giờ sinh ra. Nghĩa là không có ai ở đó để cứu Harry.

Không thể tin được em trai mình đã chết. George nghẹn ngào: “Cháu phải đi rồi. Chúc hai bác năm mới hạnh phúc”.

*

George đi như chạy trốn, bỏ lại tiếng sủa của con Brownie đằng sau. Anh bước vô định về phía nhà mình. Anh muốn gặp Mary. Anh muốn biết nếu không có mình, cuộc sống của nàng sẽ ra sao? George ngập ngừng rồi gõ cửa. Có tiếng quát trẻ con. Rồi Mary bước ra. George cố lấy giọng bình tĩnh: “Thưa chị. Công ty chúng tôi xin tặng chị một món quà nhân ngày Tết”. Mary im lặng. George tiếp tục: “Quà hoàn toàn miễn phí. Xin chị cho vào nhà hỏi vài câu”.

Cánh cửa mở rộng. Giữa căn nhà vẫn là chiếc ghế sofa đắt tiền. Đó là chiếc ghế sofa màu xanh lơ mà Mary dành dụm tiền mua sau ngày cưới. George đứng bần thần, tay run run lần trong túi ra một cái bàn chải màu xanh và đưa cho Mary.

Mary cầm lấy chiếc bàn chải, ngạc nhiên: “Chiếc bàn chải này đẹp thật. Quà miễn phí à?” George gật đầu: “Đây là món quà công ty tôi muốn tri ân đến khách hàng. Tôi, tôi muốn hỏi…”.

Đúng lúc đó, hai đứa trẻ con chạy ào từ bếp ra. Thằng bé con cầm khẩu súng nhựa gào lên: “Nó ăn gian mẹ ơi. Con bắn nó trúng đạn rồi mà nó không chịu chết”. Thằng bé trông giống hệt Arthur. Nó quay súng chĩa vào George: “Giơ tay lên. Pằng! Pằng! Chết này! Chết này!”

Đúng lúc đó, có tiếng bước chân nặng nề. Cửa mở tung. Chính là Arthur Jenkins. Lũ trẻ con có vẻ sợ hãi lùi lại. Arthur mặt mũi đỏ gay, nồng nặc hơi rượu nhìn George: “Ai đây?” Mary vội phân trần: “Đó là người bán bàn chải. Anh ta tặng quà Tết”. Arthur rít lên trong họng: “Bán bàn chải? Bảo hắn biến đi”. Nói đoạn, Arthur thả mình gác chân lên chiếc ghế sofa. Bùn bẩn rơi xuống lả tả: “Nhà này không cần bàn chải! Càng không cần đứa bán bàn chải”.

Mary nhìn George như muốn cầu xin anh đi cho nhanh. George ngậm ngùi cúi đầu đi ra phía cửa. Đứa con của Arthur cầm khẩu súng nhựa chĩa vào anh hét to: “Pằng! Pằng! Chết đi! Chết đi!”.

*

George lầm lùi đi trên con phố lạnh. Thằng bé có lẽ đúng. Mình thật đáng chết. Tại sao mình lại cầu xin một lời ước ngu xuẩn đến vậy. Anh vô định đi về phía chiếc cầu. Trong sương mờ, cái bóng của ông lão đứng im lìm. George mừng rỡ vội tóm lấy ông lão: “Đủ rồi! Sao ông lại đưa tôi vào trò chơi quái đản này?”

Ông lão nhướng mày: “Tôi đưa cậu vào? Chính cậu ước cơ mà? Giờ cậu đã trở thành người tự do nhất trên thế giới này. Không cha mẹ, không vợ con, không người thân, không trách nhiệm, vô lo, vô nghĩ. Đó chẳng phải là điều cậu mong muốn là gì?”

George run run giọng: “Tôi thật ngu xuẩn. Tôi đã làm hệ lụy đến bao nhiêu người. Hãy đưa mọi chuyện trở lại như ban đầu, xin ông”. Ông già chậm rãi: “Cậu đã có một món quà lớn nhất. Đó là cuộc sống. Vậy mà cậu lại định vứt bỏ nó đi”.

Tiếng chuông nhà thờ vang lên. Đã đến thời khắc giao thừa. George quỳ sụp xuống: “Tại sao ông lại làm thế. Làm vậy khác nào giết người?” Ông già lạnh lùng: “Giết người? Phải nói là tự tử chứ? Cậu đã giết chính cậu cơ mà?”

Tiếng chuông vẫn vang lên. George nghẹn giọng: “Có cách nào cứu vãn được không?” Ông già nhẹ nhàng: “Hãy nhắm mắt vào và cầu nguyện. Trước thời khắc giao thừa, có thể điều kỳ diệu vẫn xảy ra”. George nhắm mắt lại. Chuông điểm những tiếng cuối cùng. Cả thị trấn hò reo. Tiếng pháo nổ tưng bừng. George mở mắt. Ông già đã biến đâu mất tự lúc nào.

*

George vội chạy về phía thị trấn. Thấy anh hớt hải, người môi giới địa ốc Jim Silva vẫy tay: “George, sao lại ở đây giờ này? Không ở nhà à?” George đáp: “Tôi định qua xem ngân hàng có ổn không?” Jim xua xua tay: “Không cần đâu. Tôi vừa đi qua đó. Mọi thứ ổn cả. Đèn trang trí bật rồi. Đẹp lắm”.

George vội nói chúc mừng năm mới rồi chạy về phía nhà cha mẹ. Con chó già Brownie vội lao ra liếm tay anh mừng rỡ. Cửa mở. Anh vội ôm chầm lấy cậu em Harry, hôn bố mẹ rồi chúc mừng năm mới mọi người.

Không khí giao thừa thấm đẫm đường phố. Ngôi nhà nhỏ bé của anh hiện lên ấm áp. Anh vội lao vào mở cửa gọi hối hả: “Mary ơi! Các con ơi!” Vợ anh bước xuống suỵt suỵt: “Các con ngủ rồi. Anh đi đâu cả tối nay thế?” George vội chạy lên cầu thang, ôm chầm lấy vợ và hôn nàng nồng nàn. Rồi anh bước vào trong phòng, ngắm nhìn hai đứa con đang say giấc như hai thiên thần nhỏ bé.

Hai vợ chồng dắt nhau xuống phòng khách. George thả mình xuống chiếc ghế sofa, ôm Mary vào lòng dịu dàng: “Chút nữa thì anh đã mất em. Em không biết chuyện gì đã xảy ra đâu”. Mary ngước nhìn: “Chuyện gì?”

George chống tay xuống chiếc sofa, hắng giọng định kể lại mọi chuyện kỳ lạ tối nay. Bỗng cổ họng anh như đóng băng. Tay anh vừa chạm vào một vật quen quen.

Anh đưa tay lên nhìn. Đó là một chiếc bàn chải. Chiếc bàn chải màu xanh. Một món quà đêm Giao thừa. Món quà vĩ đại nhất.  

HOÀNG TÙNG (lược dịch)
(SH275/1-12)








Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.

  • AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.

  • Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…

  • Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.

  • HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.

  • SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.

  • KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết  truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.

  • FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.

  • MIKHAIN SÔLÔKHỐP                Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.

  • KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.

  • ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.

  • GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.

  • GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.

  • JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.

  • SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.

  • DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.