Món quà đêm giao thừa

14:50 14/01/2012
Nhà văn Phillip Van Doren Stern sinh ra tại Wyalusing, bang Pennsylvania và lớn lên tại Brooklyn, New York. The Greatest Gift là truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông. Phillip Van Doren Stern đã từng gửi câu truyện này đi nhiều báo và tạp chí nhưng không nơi nào nhận đăng. Cuối cùng ông cho in truyện lên 200 tấm thiệp năm mới và phát cho bạn bè.

Một cảnh trong phim "It’s a wonderful life" - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if !mso]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Câu truyện lan rộng, được nhiều người sao chép và gửi cho nhau nhân dịp năm mới. Đạo diễn Frank Capra sau khi đọc truyện đã xúc động thốt lên: “Tôi đã dành cả đời mình để tìm ra một câu chuyện hay như thế này”. Sau đó, đạo diễn Frank Capra đã chuyển thể câu chuyện thành bộ phim có tên: Cuộc sống tuyệt vời – It’s a wonderful life. Bộ phim đã được đề cử hàng loạt giải Oscar danh giá và nằm trong danh sách 100 bộ phim kinh điển hay nhất mọi thời đại của điện ảnh Mỹ.



PHILLIP VAN DOREN STERN


Món quà đêm giao thừa


Thị trấn nhỏ lấp lánh ánh đèn trang trí đêm Giao thừa. Nhưng George Pratt không chú tâm. Anh cúi mình qua thành cầu nhìn xuống dòng nước giá buốt, tự nhủ: “Nếu trầm mình dưới dòng nước kia thì bao lâu sẽ chết?”.

Bỗng từ phía sau có một giọng nói vang lên: “Nếu là cậu, tôi sẽ không làm vậy đâu”.

George quay lại nhìn. Đó là một ông lão lạ mặt, hình dáng nhỏ nhắn với cái cằm nhẵn nhụi ửng hồng trong băng giá mùa đông. George thắc mắc: “Làm gì cơ?”. Ông lão cười nhạt: “Làm cái điều mà cậu đang nghĩ trong đầu ý”. George ngạc nhiên: “Làm sao ông biết được tôi đang nghĩ gì trong đầu?” Ông lão trầm giọng: “Biết chứ. Đó là công việc của tôi mà”.

George ngắm nhìn ông lão từ đầu đến chân. Không có gì nổi trội. Phục trang hết sức bình thường. Ông ta đeo một cái túi. Có vẻ đó là túi mang đồ mẫu của một người bán hàng.

Ông lão chậm rãi: “Mọi việc giờ ổn thỏa rồi. Cậu nên về nhà”. George nổi cáu: “Ông biết gì mà bảo là ổn thỏa?” Ông lão nghiêm giọng: “Nếu cậu muốn tự tử vào đúng đêm Giao thừa, cậu nên nghĩ đến Mary và cả mẹ cậu nữa!”

George ngạc nhiên. Ông lão đã nói trúng tim đen của anh. George thở dài: “Nếu ông biết thêm một chút về tôi, chắc ông chẳng cản tôi đâu”. Ông lão cười: “Thôi nào, cậu có một công việc tử tế, vợ xinh và con ngoan. Cậu còn trẻ, khỏe, và…”.

George ngắt lời: “Và tôi chán mọi thứ đến tận cổ. Bao năm rồi tôi chỉ là một gã nhân viên quèn, làm một công việc tẻ nhạt ngày này qua ngày khác. Biết bao dự định cho tương lai, cho gia đình mà rồi tôi chẳng làm gì nên hồn. Tết năm nay tôi còn chẳng có tiền mua quà cho người thân trong gia đình. Tôi chỉ là một kẻ vô dụng. Ước gì tôi chưa bao giờ có mặt trên đời này!”

Ông lão nghiêng đầu: “Cậu nói gì cơ?” George đanh giọng: “Ước gì tôi chưa bao giờ có mặt trên cõi đời này. Thế đấy!” Ông lão nói, giọng vui vẻ: “Được thôi, nếu đó là điều cậu mong muốn. Cậu chưa bao giờ sinh ra trên cõi đời này. Ha! Ha! Ha!” George tức giận: “Đồ điên”. Nói đoạn anh quay người đi nhanh về phía trung tâm thị trấn.

Ông lão đuổi theo, nắm lấy tay George và quàng lên vai cậu cái túi: “Cậu nên mang theo thứ này”. George bực mình: “Để làm gì? Tôi có phải là nhân viên bán hàng như ông đâu?” Ông lão kiên nhẫn: “Thôi nào! Nếu chỗ nào có vẻ khó vào, cậu cứ bảo rằng đây là quà tặng miễn phí của công ty. Nhớ là MIỄN PHÍ. Người ta sẽ dễ cho cậu vào nhà chứ không đóng cửa và đuổi cậu đi như một người lạ mặt”. George tức giận đẩy cái túi về phía ông lão: “Làm gì có chuyện đó. Ai trong cái thị trấn nhỏ bé này chẳng biết mặt tôi”. Ông lão cười: “Cứ cầm theo đi. Không chết ai đâu mà sợ!”

Nói đoạn ông lão ném cái túi về phía George. Anh theo quán tính giơ tay bắt lấy. Nhìn xung quanh, ông lão đã biến mất. Có lẽ ông ta đã trốn vào mấy lùm cây dọc sông. George không muốn chơi trò trốn tìm với ông già. Trời ngày càng tối. Gió thổi ngày một lạnh. Anh cầm theo cái túi, đi thẳng về phía trung tâm thị trấn.

*

George đi ngang qua ngân hàng nơi anh làm việc. Đã có một sự thay đổi lớn. Tòa nhà của ngân hàng giờ trông tối tăm và cũ nát thảm hại. Trước cửa vào là một tấm biển đề: “Bán hoặc cho thuê. Liên hệ: Văn phòng Môi giới địa ốc Jim Silva”.

George kinh ngạc. Tại sao lại có chuyện này? Chắc đây là trò đùa của một đứa nhóc tinh nghịch nào đấy. Nhưng sao cửa sổ của tòa nhà có vẻ cũ kỹ như đã lâu lắm rồi không có người lau dọn? George bước sang đường gõ cửa vào văn phòng của Jim Silva.

Jim hơi ngạc nhiên vì có người vào nhà vào lúc gần Giao thừa: “Tôi có thể giúp gì cho anh?” George thở gấp: “Ngân hàng! Chuyện gì xảy ra với nó vậy?” Giọng Jim như có phần hy vọng: “Anh muốn thuê lại nó hay sao?” George hồi hộp: “Ý anh là ngân hàng này đóng cửa rồi à?” Jim trầm giọng: “Gần 10 năm nay rồi. Phá sản! Anh là người mới đến đây à?”

George dựa tay vào tường nói yếu ớt: “Tôi từng ở đây. Khi đó ngân hàng còn có vẻ ổn. Tôi biết vài người làm việc ở đó”. Jim hất hàm: “Anh có biết gã Marty Jenkins không?” George hơi ngạc nhiên. Marty có bao giờ làm ngân hàng đâu nhỉ? Hồi trước, anh với gã cùng xin vào một vị trí ở ngân hàng. Người được nhận là anh. Còn Martin đã đi làm chỗ khác. George nhíu mày: “Marty Jenkins? Có lẽ tôi đã từng nghe qua cái tên này”.

Jim nói giọng giận dữ: “Vậy chắc hẳn anh đã biết vụ hắn biển thủ 500.000 đô la của ngân hàng. Vụ việc vỡ lở. Ngân hàng khánh kiệt rồi phá sản. Mọi người ở đây ai nấy đều bị ảnh hưởng” Rồi Jim liếc nhìn George: “Anh mà biết hắn giờ ở đâu thì báo cho tôi. Tôi bị hắn lừa mất một khoản tiền lớn. Ai nấy đều muốn tóm cổ hắn”. George băn khoăn: “Marty Jenkins có một người anh trai cơ mà? Tên là Arthur? Sao mọi người không hỏi anh ý?”

Jim lắc lắc đầu: “Arthur à? Hắn cũng không biết Marty ở đâu. Hắn cũng bị mất tiền. Giờ hắn là một thằng cha nát rượu. Suốt ngày đánh chửi vợ con. Khổ thân, vợ hắn là một người phụ nữ tốt…”.

George cảm thấy tim mình thắt lại. Ngày trước, anh và Arthur cùng theo đuổi Mary. Anh nói như bàng hoàng: “Vợ của Arthur ư?” Jim gật gật đầu: “Đúng rồi. Cô ta tên là Mary Thatcher. Ê này, anh chạy đi đâu đấy hả???”

*

Nghe xong cái tên Mary Thatcher, George vội chạy ra khỏi cửa. Anh muốn chạy thẳng về nhà xem mọi thứ ra sao. Rồi anh băn khoăn. Chắc tại mình chưa bao giờ sinh ra nên Mary đã cưới Arthur. Anh chưa sẵn sàng đối diện nói chuyện với nàng ở vai trò nàng là vợ một người khác.

Đôi chân anh như vô định đưa anh về ngôi nhà của cha mẹ. Bên ngoài cửa đèn nến trang trí sơ sài. Bỗng nhiên một cái bóng đen to lớn nhào ra: “Gâu! Gâu! Gâu!” Con chó Brownie. Nó không nhận ra anh, sủa dữ dội. George đưa tay lên miệng suỵt suỵt: “Này, tao đây mà!” Brownie mặc kệ, nó chồm lên hàng rào. Bên trong nhà cha của George chạy ra tóm lấy con chó: “Có chuyện gì thì vào hẳn bên trong nhà đi. Con chó này không thích người lạ đâu”.

George hụt hẫng. Cha anh không nhận ra anh. Đương nhiên rồi. Anh chưa bao giờ sinh ra mà. Bước vào cửa, anh lục túi móc ra một cái bàn chải hướng về phía mẹ, giọng ngẹn lại: “Thưa mẹ… bà. Đây là món quà từ công ty chúng tôi. Quà miễn phí”. Mẹ anh cười ấm áp: “Tốt quá. Chưa bao giờ tôi nhận được quà miễn phí thế này. Cậu ngồi xuống đây! Trời rét mướt đêm Giao thừa này mà vẫn còn phải đi làm à?”

“Vâng!” George đáp, ngồi xuống quan sát xung quanh. Căn phòng thân thuộc giờ như có một cái gì đó khác lạ. Cha anh đã bước vào trong nhà đóng cửa lại nhìn anh thẫn thờ: “Cậu trông giống thằng Harry thật đấy!”

Harry? Đó chính là cậu em trai của George. Giờ George mới nhận ra sự khác lạ. Đó là ở bức ảnh treo trên tường. Bức ảnh đó chụp hai anh em nhân lần sinh nhật thứ 16 của Harry. Giờ trong bức ảnh chỉ còn Harry đang mỉm cười. George chỉ tay vào bức ảnh hỏi: “Đây là Harry, con trai của ông bà phải không?”

Gương mặt của mẹ anh dường như có một đám mây bao phủ. Bà chỉ gật đầu chứ không đáp lại. Không gian chùng xuống. George phá tan sự tĩnh lặng: “Mấy tháng trước cháu đã gặp cậu ta ở đâu đó rồi thì phải”. Mẹ anh quay mặt giấu đi một tiếng nấc. Cha anh quàng tay quanh vai mẹ anh vỗ vỗ: “Chắc cậu nhầm rồi. Thằng Harry đã chết từ lâu rồi. Nó bị chết đuối đúng vào hôm nó chụp bức ảnh đó”.

George chợt nhớ ra. Hôm hai anh em đi chụp ảnh, trên đường về, Harry trượt chân ngã xuống nước. George đã cứu em trai khỏi chết đuối. Nhưng giờ anh chưa bao giờ sinh ra. Nghĩa là không có ai ở đó để cứu Harry.

Không thể tin được em trai mình đã chết. George nghẹn ngào: “Cháu phải đi rồi. Chúc hai bác năm mới hạnh phúc”.

*

George đi như chạy trốn, bỏ lại tiếng sủa của con Brownie đằng sau. Anh bước vô định về phía nhà mình. Anh muốn gặp Mary. Anh muốn biết nếu không có mình, cuộc sống của nàng sẽ ra sao? George ngập ngừng rồi gõ cửa. Có tiếng quát trẻ con. Rồi Mary bước ra. George cố lấy giọng bình tĩnh: “Thưa chị. Công ty chúng tôi xin tặng chị một món quà nhân ngày Tết”. Mary im lặng. George tiếp tục: “Quà hoàn toàn miễn phí. Xin chị cho vào nhà hỏi vài câu”.

Cánh cửa mở rộng. Giữa căn nhà vẫn là chiếc ghế sofa đắt tiền. Đó là chiếc ghế sofa màu xanh lơ mà Mary dành dụm tiền mua sau ngày cưới. George đứng bần thần, tay run run lần trong túi ra một cái bàn chải màu xanh và đưa cho Mary.

Mary cầm lấy chiếc bàn chải, ngạc nhiên: “Chiếc bàn chải này đẹp thật. Quà miễn phí à?” George gật đầu: “Đây là món quà công ty tôi muốn tri ân đến khách hàng. Tôi, tôi muốn hỏi…”.

Đúng lúc đó, hai đứa trẻ con chạy ào từ bếp ra. Thằng bé con cầm khẩu súng nhựa gào lên: “Nó ăn gian mẹ ơi. Con bắn nó trúng đạn rồi mà nó không chịu chết”. Thằng bé trông giống hệt Arthur. Nó quay súng chĩa vào George: “Giơ tay lên. Pằng! Pằng! Chết này! Chết này!”

Đúng lúc đó, có tiếng bước chân nặng nề. Cửa mở tung. Chính là Arthur Jenkins. Lũ trẻ con có vẻ sợ hãi lùi lại. Arthur mặt mũi đỏ gay, nồng nặc hơi rượu nhìn George: “Ai đây?” Mary vội phân trần: “Đó là người bán bàn chải. Anh ta tặng quà Tết”. Arthur rít lên trong họng: “Bán bàn chải? Bảo hắn biến đi”. Nói đoạn, Arthur thả mình gác chân lên chiếc ghế sofa. Bùn bẩn rơi xuống lả tả: “Nhà này không cần bàn chải! Càng không cần đứa bán bàn chải”.

Mary nhìn George như muốn cầu xin anh đi cho nhanh. George ngậm ngùi cúi đầu đi ra phía cửa. Đứa con của Arthur cầm khẩu súng nhựa chĩa vào anh hét to: “Pằng! Pằng! Chết đi! Chết đi!”.

*

George lầm lùi đi trên con phố lạnh. Thằng bé có lẽ đúng. Mình thật đáng chết. Tại sao mình lại cầu xin một lời ước ngu xuẩn đến vậy. Anh vô định đi về phía chiếc cầu. Trong sương mờ, cái bóng của ông lão đứng im lìm. George mừng rỡ vội tóm lấy ông lão: “Đủ rồi! Sao ông lại đưa tôi vào trò chơi quái đản này?”

Ông lão nhướng mày: “Tôi đưa cậu vào? Chính cậu ước cơ mà? Giờ cậu đã trở thành người tự do nhất trên thế giới này. Không cha mẹ, không vợ con, không người thân, không trách nhiệm, vô lo, vô nghĩ. Đó chẳng phải là điều cậu mong muốn là gì?”

George run run giọng: “Tôi thật ngu xuẩn. Tôi đã làm hệ lụy đến bao nhiêu người. Hãy đưa mọi chuyện trở lại như ban đầu, xin ông”. Ông già chậm rãi: “Cậu đã có một món quà lớn nhất. Đó là cuộc sống. Vậy mà cậu lại định vứt bỏ nó đi”.

Tiếng chuông nhà thờ vang lên. Đã đến thời khắc giao thừa. George quỳ sụp xuống: “Tại sao ông lại làm thế. Làm vậy khác nào giết người?” Ông già lạnh lùng: “Giết người? Phải nói là tự tử chứ? Cậu đã giết chính cậu cơ mà?”

Tiếng chuông vẫn vang lên. George nghẹn giọng: “Có cách nào cứu vãn được không?” Ông già nhẹ nhàng: “Hãy nhắm mắt vào và cầu nguyện. Trước thời khắc giao thừa, có thể điều kỳ diệu vẫn xảy ra”. George nhắm mắt lại. Chuông điểm những tiếng cuối cùng. Cả thị trấn hò reo. Tiếng pháo nổ tưng bừng. George mở mắt. Ông già đã biến đâu mất tự lúc nào.

*

George vội chạy về phía thị trấn. Thấy anh hớt hải, người môi giới địa ốc Jim Silva vẫy tay: “George, sao lại ở đây giờ này? Không ở nhà à?” George đáp: “Tôi định qua xem ngân hàng có ổn không?” Jim xua xua tay: “Không cần đâu. Tôi vừa đi qua đó. Mọi thứ ổn cả. Đèn trang trí bật rồi. Đẹp lắm”.

George vội nói chúc mừng năm mới rồi chạy về phía nhà cha mẹ. Con chó già Brownie vội lao ra liếm tay anh mừng rỡ. Cửa mở. Anh vội ôm chầm lấy cậu em Harry, hôn bố mẹ rồi chúc mừng năm mới mọi người.

Không khí giao thừa thấm đẫm đường phố. Ngôi nhà nhỏ bé của anh hiện lên ấm áp. Anh vội lao vào mở cửa gọi hối hả: “Mary ơi! Các con ơi!” Vợ anh bước xuống suỵt suỵt: “Các con ngủ rồi. Anh đi đâu cả tối nay thế?” George vội chạy lên cầu thang, ôm chầm lấy vợ và hôn nàng nồng nàn. Rồi anh bước vào trong phòng, ngắm nhìn hai đứa con đang say giấc như hai thiên thần nhỏ bé.

Hai vợ chồng dắt nhau xuống phòng khách. George thả mình xuống chiếc ghế sofa, ôm Mary vào lòng dịu dàng: “Chút nữa thì anh đã mất em. Em không biết chuyện gì đã xảy ra đâu”. Mary ngước nhìn: “Chuyện gì?”

George chống tay xuống chiếc sofa, hắng giọng định kể lại mọi chuyện kỳ lạ tối nay. Bỗng cổ họng anh như đóng băng. Tay anh vừa chạm vào một vật quen quen.

Anh đưa tay lên nhìn. Đó là một chiếc bàn chải. Chiếc bàn chải màu xanh. Một món quà đêm Giao thừa. Món quà vĩ đại nhất.  

HOÀNG TÙNG (lược dịch)
(SH275/1-12)








Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.

  • L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.

  • Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.

  • William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.

  • LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.

  • LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.

  • Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.

  • LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...

  • L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.

  • L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.

  • LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.

  • LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.

  • PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.

  • A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.

  • An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.

  • VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.

  • Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.

  • K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.

  • LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.

  • LGT: Irving Stone (1903-1989), nhà văn Mỹ hiện đại, nổi tiếng trong nước và trên thế giới nhờ những kịch bản phim lịch sử, những tác phẩm về tiểu sử các nhân vật nổi tiếng, nhất là những cuốn “Khát vọng cuộc sống” (Lust for Life) viết năm 1934, về Vincent van Gogh, danh hoạ Hà Lan, “Tê tái và Đê mê” (The Agony and the Ecstasy) viết năm 1961, về Michelangelo, danh hoạ và nghệ sĩ điêu khắc Italy, “Thuỷ thủ trên lưng ngựa” (Sailor on Horseback) về Jack London, nhà văn Mỹ lừng danh...).