TÔN THẤT BÌNH
Kim Long (còn được gọi là Kim Luông) vốn là đất các chúa Nguyễn chọn nơi lập phủ từ năm 1636 đến 1687. Năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Trăn mới dời phủ về Phú Xuân, cách Kim Long chỉ 3 cây số, dọc theo bờ Sông Hương.
Ảnh: internet
Từ đó, Kim Long được làm nơi thờ các chúa Nguyễn, nhưng các dấu tích một thời vàng son vẫn còn bóng dáng: Chùa chiền, đền đài, dinh thự cổ kính của các ông Hoàng, bà chúa, thế gia vọng tộc ở Huế dù mang nét rêu phong vẫn tiềm tàng vẻ đẹp xưa.
Đấy là một vùng đất có truyền thống văn hóa: Chùa Linh Mụ trên đồi Hà Khê; Văn Thánh, Võ Thánh, trường Quốc Tử Giám, trường thi đều được xây dựng tại Kim Long. Đây còn là nơi Lê Quý Đôn ung dung dạo chơi lúc rảnh rỗi và có công khai canh làng Xuân Hòa (1). Con gái Kim Long nổi tiếng đẹp, nết na và đảm đang, làng An Ninh dệt vải, các xóm thôn ở Kim Long có truyền thống làm mứt bánh, chẳng thế mà dân gian vẫn lưu truyền câu ca dao:
Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi.
Nét quanh co uốn lượn của giòng Hương trên đồi Vọng Cảnh đến địa phận Kim Long trở nên mênh mang, êm ả. Cô gái chèo thuyền trên sông có thể giãi bày tâm tư bằng câu hò mái nhì man mác:
Kim Long dãy dọc tòa ngang,
Em chèo một chiếc thuyền nan về Sình
Đôi đứa mình lỡ hẹn ba sinh
Có mần răng đi nữa cũng trọn tình với nhau.
Cảnh sắc Kim Long nhờ Sông Hương trở nên hữu tình. Trải bao năm tháng, Kim Long vẫn gây được cảm xúc thi tứ dạt dào trong lòng khách tha phương. Nhà thơ Nam Trân chẳng thể giấu tình cảm của mình trong "Huế đẹp và thơ":
Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng,
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo
Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết
Rằng thơ thấy đẹp phải tìm theo...
Do một vùng đất có truyền thống văn hóa như vậy, Kim Long ngày xưa cũng như hiện tại vẫn giữ được những nét đáng yêu. Đây là vùng của dinh thự, phủ đệ bao đời trước, các nhà - vườn tiêu biểu ở Huế, lối kiến trúc lập vườn không chỉ chú trọng đến kinh tế mà còn đậm đà nét văn hóa trong bố cục tổng thể. Đây còn là vùng văn nghệ dân gian nổi tiếng, nơi tập trung các tay hò, các nghệ sĩ đàn lão luyện, nơi mà các sinh hoạt rộn rã vui tươi một thời của ngày Tết còn dư âm mãi cho đến những năm đầu thế kỷ XX này. Có thể kể ở vùng này, trong những ngày Xuân, dân gian đã có những sinh hoạt khá phong phú: chơi bài thai, bài chòi, bài vụ, xem hát bội, đua trãi, đá gà. Nổi tiếng nhất là ở dinh bà chúa Tám với các trò chơi đá gà thai đố. Cạnh đó là trường hát bội một thời vang bóng (2) nơi tụ họp các danh tài như Giáo Khế, Cửu Am sắm kép, đào thì có cô Tư Huệ danh sắc một thời.
Trong những trò chơi ngày Tết ở Kim Long, đáng tìm hiểu nhất là trò chơi đố thai thường diễn ra hàng năm tại các dinh phủ ông Hoàng, bà chúa, các thế gia vọng tộc hoặc các nhà trí thức, hò bài thai trong dân gian được bày khắp các nẻo đường thôn xóm.
Đố thai là một trò chơi đố chữ vừa thanh nhã lại dung hợp được tính dân gian và bác học, ai cũng có thể tham dự đố thai. Đây là một trò chơi cốt thử thách trí thông minh, tài sử dụng ngôn ngữ.
Ban tổ chức chơi đố thai thường dán một câu thách đố bằng thể thơ lục bát dân gian vào cái lồng đèn lớn treo trước dinh; người tham dự nhìn vào câu thơ, suy ngẫm cách giải dựa vào chìa khóa hướng dẫn trả lời ở chữ đả (đánh) viết cuối câu. Đánh sai sẽ được nghe vài tiếng mỏ lốc cốc, nếu đánh trúng, một hồi trống vang dội, tiếp đó ban tổ chức sẽ cho người bưng quà tặng đặt trên một chiếc khay nhỏ đến thưởng tận tay người dự đoán, quà thường là những kỷ vật có giá trị.
Như vậy người chơi sẽ không mất tiền đoán mà chỉ được thưởng nếu thông minh, lanh trí đáp trúng.
Nhiều giai thoại xung quanh cuộc chơi đố thai này được lưu truyền.
Một dịp Tết nọ, tại dinh bà Chúa Tám có câu thai đố:
Có ăn mà chịu đã xong
Không ăn mà chịu cực lòng gian nan.
Đả: Mộc danh và nhân danh.
Câu này thật khó đánh, thường thì chỉ một lời đáp, hoặc mộc danh (tên cây) hoặc nhân danh (tên người). Tên cây và tên người phải xuất phát từ địa phương. Nhiều người đoán nhưng chẳng ai trúng, sau cùng ông Lý Đài, một người có tính nghịch ngợm, ưa trêu cợt người khác giải được bằng câu vần:
Chưởi cây bưởi nghe, mụ nghè làm chứng
Một hồi trống vang lên tán thưởng cho tài lanh trí của ông. Ông đã đoán được thâm ý của người ra câu thai kia muốn nhắm vào ông mà châm chọc, vì mụ Nghè ông quen chồng chết đã lâu.
Cũng nên lưu ý rằng vùng Kim Long đất tốt, rất thích hợp để trồng thanh trà, bưởi, mít... những cây lưu niên có giá trị kinh tế.
Một lần khác, câu thai đố ra khá hóc hiểm, tuy xuất phát từ một câu ca dao trữ tình đầy ý nghĩa và nhiều người biết:
Thương nhau cởi áo cho nhau.
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay
Đả: Dụng cụ
Ông Bá Đảo làng Xuân Hòa đã thắng cuộc thi giải đáp:
Thương nhau cho nhau áo, mẹ hỏi nói dối qua cầu gió bay, đó là con dấu.
Thế đó! Muốn giải thai đố cần phải vận dụng trí thông minh, tài ngôn ngữ và thêm một ít tinh thần trào phúng nữa.
Nhiều câu thai đố lại thử thách tài năng bác học. Lối chiết tự chữ Hán cũng được sử dụng, ví như câu:
Chán chi gỗ mít, gỗ xoan,
Tạm dùng lếu láo vài gian tu hành.
Đả: Chữ
Đáp: Chữ đẳng 等 gồm bộ trúc (tre) ở trên, chữ tự (chùa) ở dưới. Chùa được dựng bằng tre.
Đố thai là một trò chơi của trí thức ngày tết, hò bài thai là một trò chơi dân gian, dùng hình thức thai đố bằng câu hò. Căn cứ trên 30 con bài tới có những tên lạ lùng, mộc mạc, những hình tượng, vật thể, con người gần gũi với quần chúng: Xơ, nhọn, tám tiền, xe, nghèo, gà, lá liễu, đỏ mỏ, rún, voi, sưa, dày, quăng, thầy, tứ cẳng, nọc đượng...
Từ lâu bộ bài tới trở thành một bộ bài phổ biến trong dân gian dùng để chơi bài nọc, bài chòi, bài tới, bài thai. Với trò chơi bài thai, người chơi phải vận dụng trí thông minh mà đoán tên con bài, sau khi nghe một câu hò du dương đầy tính trữ tình của người hò cái: Đây là trò chơi có ăn tiền, nhưng không nặng tính chất sát phạt. Người chơi được thưởng gấp 8 đến 10 lần số tiền đặt nếu đánh trúng con bài thai. Nhưng niềm vui lý thú hơn là được nghe câu hò ân ái, đầy ý nghĩa mà người tham dự phải suy luận theo lối dân gian mới dễ đánh trúng, vì cách suy diễn để đoán con bài thai khác hẳn lối suy luận để đoán tên trong đố thai.
Ví dụ như câu:
Chàng đừng lời thở tiếng than mà thiếp đau lòng xót dạ,
Đêm em nằm nơi trướng hạ, thấy anh sao đặng chừ.
Đạo làm con là do quyền thầy mẹ, tấm thân của em chừ như ngọn cỏ đá dằn.
Ví dầu thầy mẹ không thương chàng đi nữa em đây cũng vô lòn ra cúi để lời nỉ tiếng năn cho thương chàng.
Đó là con rún, lối giải thích như sau.
Phận làm con đành vô lòn ra cúi cho nên dù cha mẹ có làm gì cũng bầm gan tím ruột mà chịu, nhưng lòng tựa như rún bị cắt hai.
Lối suy diễn để giải con bài thai trên quả là chơn chất mộc mạc; có thể suy diễn theo nhiều cách khác nhau, đó là mẹo mực của người cái. Bộ bài tới có 30 tên con bài nên dễ có nhiều lời giải cho một câu hò. Ví như câu này:
Tay chàng vén mùng rồi là tay chàng bưng chén thuốc,
Đỡ em ngồi dậy vội vuốt Cúc Hoa Khuyên em uống chén thuốc này cho bệnh khỏi tai qua
Sợ em cho số ba mươi thiên tào dĩ tận rứa thì ai bỏ cá với cơm và cho hai con.
Giải thích: Con ầm. Sợ cho em số ba mươi thiên tào dĩ tận khi nớ em lên Trời bỏ con.
Câu trên có thể suy diễn thành con tử (chết) lấy từ con bài: thái tử; hoặc con liễu, ám chỉ người phụ nữ.
Có lẽ người cái không thể dùng một logích chặt chẽ để giải con bài, nếu vậy ai cũng có thể đánh trúng. Đôi khi lại còn dùng phương cách đánh tráo ý nghĩa ngôn từ để giải. Câu hò bài thai sau là một ví dụ:
Chàng nghe thiếp phân mấy lời sau trước,
Trở lui về mượn người mai chuốt mối dong
Qua thưa thầy thầy không đẹp dạ, thưa mẹ mẹ chẳng vừa lòng.
Mẹ với thầy chê chàng ở xứ quê mùa thôn dã nên chi đôi đứa chìm nổi linh đinh với rứa hoài.
Đó là con trường ba.
Giải thích: vì thầy mẹ không vừa lòng nên duyên đôi ta ba chìm ba nổi.
Rõ ràng là người cái đã đánh tráo ý nghĩa ngôn từ. Theo thể thức thi hương ngày trước, vượt qua được 3 trường gọi là tam trường (trường ba); nhưng ở câu này, người cái bỏ từ trường, chỉ lấy từ ba, trong con bài trường ba để giải thích là ba chìm ba nổi. Qua cách giải thích này, nếu không quen với lối suy diễn dân gian khó có thể đánh trúng con bài thai được úp ở dưới chiếu.
Chơi bài thai ở Kim Long trong những ngày xuân phổ biến cho đến ngày Giải phóng. Các nghệ nhân hò bài thai nổi tiếng ở đây vẫn còn được nhân dân nhắc nhở (3) mỗi lần tiết Xuân trở lại trên vùng đất cổ ấy, với niềm luyến tiếc xa xôi một trò chơi dân gian thanh nhã, cũng như đố thai đầy tính thanh lịch ở phủ bà chúa Tám.
T.T.B
(TCSH40/01-1990)
-----------------
(1) Giữa ở miếu khai canh làng Xuân Hòa hiện còn có câu:
Bổn thổ hộ bộ Thượng thơ kiêm binh bộ Hành hạ Thuận Hóa Quảng Nam đẳng xứ Lê Tướng công tôn thần
Dân Xuân Hòa cử tên gọi đôn nhà, chỉ gọi là nóc nhà, lấy ngày Lê Quý Đôn về xứ (25 tháng 9 Âm Lịch) để làm lễ kỵ ông khai canh hàng năm.
(2) Trường hát này do bà chúa Tám cùng chồng là phò mã Năm (thường gọi là ông Phò năm), ông Ưng Duy (tục danh là Hầu Bảy), ông Nguyễn Mộng Thạch (Nghè Quang) và ông Thập Bối thành lập.
(3) Ông Nguyễn Ao sinh năm 1918 tại Huế và con gái là Nguyễn thị Cúc, người đã sáng tác các câu hò trích dẫn ở trên.
LÊ QUANG THÁI
Thời hiện đại có cúng tế thì Xuân thu nhị kỳ, chọn một trong hai. Tại đền hoặc miếu Thành hoàng của làng xã mở hội tế vị thần hộ mệnh để cầu mong an cư lạc nghiệp. Hát Sử và Dã sử trong lễ hội long trọng không thể thiếu vắng.
PHAN THUẬN HÓA
LGT: Đài Tưởng niệm Chiến sĩ Trận vong nằm ở trước Trường Quốc Học (thường được gọi là Bia Quốc Học) là một tác phẩm nghệ thuật kiến trúc độc đáo của Huế; trong thời gian qua Trung tâm Công viên Cây xanh Huế đã đứng ra đầu tư tu bổ tôn tạo.
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập Đại Học Huế & 60 năm Khoa Văn Đại học Khoa học Huế
PHAN THUẬN AN
(Cựu sinh viên trường Đại học Văn Khoa, và khóa I Viện Hán Học Huế)
Rạng sáng ngày 22-3 (tức 25-2 âm lịch), Trung tâm bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã tổ chức lễ tế Xã Tắc năm 2017 tại đàn Xã Tắc, phường Thuận Hòa, thành phố Huế. Buổi lễ diễn ra trang nghiêm trong vòng gần một giờ đồng hồ theo các nghi lễ và vật phẩm được định rõ trong sách sử.
Mùa Xuân 1904
Trần Quý Cáp bước vào tuổi 34 và đỗ đầu Tiến sĩ khoa Giáp Thìn tại Huế. Ông ở Huế chưa đầy nửa năm, rồi về Quảng cho kịp ngày khai hội Duy Tân.
Mối quan hệ hợp tác về trùng tu di sản văn hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản tại cố đô Huế đã được đặt nền móng từ đầu thập niên 1990 bằng dự án trùng tu công trình Ngọ Môn, một biểu tượng của Huế.
VÕ TRIỀU SƠN
Voi đang ngày càng hiếm hoi, vậy mà ngày xưa, nó từng xuất hiện ở Huế hàng ngàn thớt voi trong kinh thành. Nhiều tư liệu xưa đã đề cập đến chuyện nuôi voi trên đất Cố đô xưa.
DƯƠNG VIỆT QUANG
Sử cũ cho thấy rằng, triều Nguyễn đã rất chú trọng việc đầu tư thủy lợi, giao thông đường thủy. Một thống kê từ “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” cho biết, có đến gần 60 lần các vua Nguyễn ban hành chỉ dụ về việc đào sông, nạo vét kênh rạch… ở 15 tỉnh trong cả nước.
THƠM QUANG
Tết Nguyên Đán luôn là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam. Tết Nguyên Đán là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Trong đó ngày cuối cùng của năm hay còn gọi là ngày 30 tết là một ngày đặc biệt.
LÊ VĂN LÂN
Đô thị phát triển nhanh là điều đáng mừng, nhưng phát triển nhanh và kiểm soát được là điều hệ trọng. Và để kiểm soát được, đô thị phải được phát triển theo một kịch bản. Kịch bản đó chính là quy hoạch đô thị, chân dung tương lai của đô thị.
Nhìn lại một năm nhiều khó khăn
Năm 2016 sự cố môi trường biển đã tác động tiêu cực, lâu dài đến tăng trưởng của nền kinh tế các tỉnh miền Trung, trong đó có tỉnh Thừa Thiên Huế.
TRƯỜNG AN
Giấc mơ đó, cũng chính là sự thể hiện quyết tâm với thái độ quyết liệt để phát triển du lịch Thừa Thiên Huế; nhiều chủ trương và giải pháp được coi là có tính đột phá mạnh mẽ và quyết liệt nhất từ trước đến nay vừa được đề xuất. Toàn tỉnh đang phấn đấu trở thành một trong những điểm đến hàng đầu của cả nước và khu vực; một điểm đến ngang hàng với các thành phố di sản văn hóa nổi tiếng thế giới.
HỒ VĨNH
Vừa qua Tạp chí Sông Hương số 333 tháng 11 năm 2016 có đăng bài “Làng cổ Dương Hóa” của tác giả Trần Viết Điền. Sau khi đọc bài “Làng cổ Dương Hóa” tôi thấy cần phải trao đổi và đóng góp một số ý kiến hầu làm sáng tỏ hơn ở một số chi tiết mà tác giả Trần Viết Điền đã viết.
Ở phía tây nam Kinh thành Huế, thuộc bờ nam sông Hương, có một dãy núi uốn lượn như mình rồng mang tên Long Sơn. Vùng long mạch này từ cuối thế kỷ 17 đã phát tích dòng thiền Việt do tổ Liễu Quán khai sáng.
TRẦN VĂN DŨNG
Những ngôi phủ đệ là di sản văn hóa - lịch sử, kiến trúc nghệ thuật sống động, độc đáo của đất Cố đô Huế, có từ triều Nguyễn với 13 đời vua (1802 - 1945), và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
LÊ VĂN LÂN
Xây dựng Huế trở thành một đô thị đáng sống, một thành phố lịch sử cổ kính, văn minh, hiện đại là mong ước của người dân và cũng là mục tiêu mà thành phố vươn tới.
HỒ VĨNH
Vừa qua Tạp chí Sông Hương Đặc biệt số 19 tháng 12/2015 đã đăng ba bài viết cung cấp một số tư liệu có liên quan đến Hội Quảng Tri ở Huế của các tác giả sau đây:
Tin vui cho công chúng yêu nghệ thuật và giới văn nghệ sĩ Huế, tại Kỳ họp thứ 2 HĐND tỉnh, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã thông báo cho cử tri biết về lộ trình thành lập Bảo tàng Mỹ thuật Huế.
THÁI KIM LAN
Nhân kỷ niệm 120 năm trường Quốc học Huế
Được sự cho phép của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, từ ngày 7/10/2016, Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Viện Khảo cổ học mở hố thám sát thăm dò dấu vết lăng mộ vua Quang Trung tại gò Dương Xuân (Trường An, TP Huế) với diện tích 22 m2.