HỒ VĨNH
Vừa qua Tạp chí Sông Hương số 333 tháng 11 năm 2016 có đăng bài “Làng cổ Dương Hóa” của tác giả Trần Viết Điền. Sau khi đọc bài “Làng cổ Dương Hóa” tôi thấy cần phải trao đổi và đóng góp một số ý kiến hầu làm sáng tỏ hơn ở một số chi tiết mà tác giả Trần Viết Điền đã viết.
![]() |
Ấp Trâm Bái có ghi rõ trong địa bộ xã Dương Xuân Thượng (1937) |
1. “Người Dương Hóa cùng với quân lính, tù binh Chăm tiếp tục khai khẩn vùng bán sơn địa cạnh làng, hai bên suối lớn (về sau thành sông An Cựu), hình thành một số ấp phía tây như Sơn Điền, Cử Sĩ, Trân Bái”(1). Tuy nhiên theo bản gốc chữ Hán, địa bộ xã Dương Xuân Thượng, lập ngày 15 tháng 10 năm Bảo Đại thứ 12 (1937) có ghi chép cụ thể về các ấp như sau: Cử Sĩ, Sơn Điền, Thuận Hòa và Trâm Bái(2). Như vậy địa danh Trâm Bái mới đúng theo nguyên bản, chứ không phải Trân Bái như tác giả Trần Viết Điền đã nêu.
2. “Xóm có miếu Tiên, giếng Tiên, khe Triều Tiên hành cung của bà chúa Tiên về sau gọi là ấp Tiên Tĩnh (nay là Hạ 2 làng Dương Xuân”(3), tác giả viết như vậy là không chính xác. Theo tôi, bản “Phụng tu gia phổ” của phòng Kiến Hòa Quận công; phụng tu vào tháng 06 năm Bảo Đại thứ 17 (1942) có ghi rất cụ thể về phần mộ của Kiến Hòa Quận công tọa lạc trên địa danh ấp Thiên Tỉnh “Dương Xuân Thượng xã, Thiên Tỉnh ấp” (ấp Thiên Tỉnh xã Dương Xuân Thượng)(4). Đây là sự nhầm lẫn do quá trình trích dẫn một cách gián tiếp giữa các sách, bài viết của những người đi trước mà thiếu kiểm chứng, như ấp Thiên Tỉnh viết mới đúng, nhưng tác giả Trần Viết Điền viết ấp Tiên Tĩnh lại bị sai.
![]() |
Bản gốc “Phụng tu gia phổ” có ghi ấp Thiên Tỉnh |
3. Trang 94 tác giả viết: “Dưới triều vua Tự Đức(1848 - 1883) ở làng Dương Xuân có hai vị thượng thư là ông Nguyễn Hữu Bài và ông Lê Bá Thận tranh chấp ngôi tiên chỉ của làng nên làng chia thành Dương Xuân Thượng và làng Dương Xuân Hạ”(5).Thật ra, qua nghiên cứu một tờ văn khế mua bán đất đai, được viết trên giấy dó, khổ 35x30cm, chữ Hán, cho biết làng Dương Xuân được chia thành 2 xã Dương Xuân Thượng và Dương Xuân Hạ có từ đời vua Gia Long chứ không phải dưới đời vua Tự Đức. Nội dung tờ văn khế được dịch nghĩa sau đây:
![]() |
Văn khế viết dưới đời vua Gia Long (1818) có ghi xã Dương Xuân Hạ |
“Tôn Thất Triều và vợ trình nguyên do lập giấy đoạn mãi.
Cha tôi trước đây có xin được chuẩn cho thuê một khoảnh đất tư hơn 6 mẫu 8 sào ở tại xứ Bầu Hóa thuộc địa phận xã Dương Xuân Hạ. Bốn phía chung quanh đều gần đất công điền của xã. Nay đem khoảnh đất trên bán đứt cho hoàng tử Điện Bàn Công để lấy đất này xây mộ phần cùng dựng phủ đệ và thuận giao mười nén bạc, lĩnh xong xuôi lập khế thì giao đất cho Điện Bàn Công nhận làm vật riêng truyền lại cho con cháu. Nếu ám muội giả trá thì cam chịu tội không dính líu đến người khác. Nước có luật pháp nên lập giấy bán để sử dụng. Còn đơn sớ trình xin được lưu giữ. Nay lập giấy.
Ngày 19 tháng 10 năm Gia Long thứ 17 (1818)”(6).
Với niềm tin vững chắc vào nhiệt tâm khoa học của tác giả, nên chăng tác giả Trần Viết Điền cần tham khảo và dựa vào một số văn bản gốc nhất định để hạn chế những sai sót như những điều chúng tôi vừa nêu trên.
H.V
(SHSDB23/12-2016)
------------
(1) Trần Viết Điền, “Làng cổ Dương Hóa”, Tạp chí Sông Hương, số 333, tháng 11. 2016, trang 90.
(2) Địa bộ xã Dương Xuân Thượng, tờ 78a-78b, 79a, 81a.
(3) Trần Viết Điền, bài đã dẫn, tr. 94.
(4) Bản “Phụng tu gia phổ”(chữ Hán) do anh Vĩnh Hùng cung cấp.
(5) Trần Viết Điền, bài đã dẫn, tr. 94.
(6) Lưu trữ văn bản gốc của Hồ Vĩnh. Phông văn bản - văn khế chữ Hán Nôm.
Từ sau Cách mạng tháng tám, nhà Nguyễn Phước tộc không còn giữ vị trí quan yếu về chính trị như trước, Đại Nội không còn là nơi sống và làm việc của vua và gia đình hoàng tộc, nét vàng son lộng lẫy cũng phải nhòa, dần dần trở thành khu di tích.
Dưới thời các chúa Nguyễn và vua Nguyễn, Huế dần trở thành một trong những trung tâm Phật giáo của Việt Nam.
Chưa có năm nào Huế có được “thiên thời - địa lợi - nhân hòa” như năm 2024. Nhìn cảnh cả vạn người hôm 13/10 háo hức hội tụ về quảng trường Ngọ Môn cổ vũ cho em Võ Quang Phú Đức đang trổ tài trên chương trình “Đường lên đỉnh Olympia” được truyền hình trực tiếp mới thấy “thiên thời” đã tiếp thêm luồng sinh khí và góp phần làm nổi bật “background” hoành tráng của Kinh thành Huế như thế nào.
Suốt quá trình lịch sử, các thế hệ gia đình Huế đã hình thành và bồi đắp nên những truyền thống tốt đẹp, tạo nên một diện mạo giá trị riêng của gia đình Huế.
NGUYỄN HỮU PHÚC
VÕ XUÂN TRANG
Vì ai nên nỗi sầu nầy
Chùa Tiên vắng vẻ, tớ thầy xa nhau?
VÕ VINH QUANG
TRẦN VĂN DŨNG
LÊ NGUYỄN LƯU
Thừa Thiên Huế ngày xưa còn được gọi là Thiền Kinh. Kể từ sau khi Nguyễn Hoàng xây dựng chùa Thiên Mụ (1601) và chùa Sùng Hóa (1602), các nhà tu hành thấy được đấy là nơi thuận lợi cho việc hoằng Pháp, và những thảo am đầu tiên tức chùa tranh, lần lượt mọc lên...
NGÔ THỜI ĐÔN
NGUYỄN THẾ
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, người dân Thừa Thiên Huế (lúc đó gọi là phủ Thừa Thiên) có truyền tụng câu: “Bác ngạn thanh liêm, Đường Xuyên trung ái”.
NGUYỄN QUANG HÀ
Mỗi lăng tẩm, đền đài, đình các, cung điện, chùa chiền... đều góp phần làm đẹp cho Hương Giang. Tạp chí Sông Hương cũng đã góp một chút gì đó cho Huế.
TRẦN THÙY MAI
Các bạn gái Huế khi tiếp xúc với người từ địa phương khác vẫn thường được khen: giọng Huế dễ thương quá.
TRẦN VĂN DŨNG
Từ trung tâm thành phố, qua khỏi Đập Đá, theo hướng về biển Thuận An, qua thôn Vỹ Dạ thì đến làng Nam Phổ nằm bên cạnh dòng sông Phổ Lợi thơ mộng.
NGUYỄN HỮU PHÚC
Trong quá trình hình thành và phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ ở Thừa Thiên Huế, triều Nguyễn là một trong những nhân tố góp phần tạo nên diện mạo của tục thờ này.
NGUYỄN XUÂN HOA
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dưới ảnh hưởng của chế độ bảo hộ, thực chất là đô hộ của Pháp, xã hội Việt Nam trải qua những biến động lớn, làm xuất hiện hàng loạt xu thế chưa từng có trong các thời đại trước đó.