Hãy trả lại sắc diện kinh đô cho thành Huế

15:52 16/07/2021

NGUYỄN QUANG HÀ   

Kinh Thành Huế được khởi công xây dựng từ thời vua Gia Long (1805) và hoàn thành dưới triều vua Minh Mạng (1832). Ngay từ thời vua Gia Long trở đi, khu vực Kinh Thành Huế là nơi sinh hoạt, làm việc của các quan nha, đồn trú doanh trại quân đội, quan xưởng triều đình, dinh cơ tư thất của tầng lớp quan lại và phủ đệ của các ông hoàng, bà chúa. Tầng lớp dân chúng chỉ được sinh sống ở vùng ngoại vi, lân cận Kinh Thành.

Ảnh của NSNA Lê Tấn Thanh

Khu vực Kinh Thành Huế có quy mô diện tích hơn 500ha, có cả hệ thống các công trình phối thuộc, quan hệ rất mật thiết và gắn liền với bản thân của Kinh thành như: Đại Nội, Quốc Tử Giám, Điện Long An, Khu Lục Bộ, Phủ Phụ Chính, Phủ Tôn Nhân, Lầu Tàng Thơ, Hồ Tịnh Tâm, Hồ Học Hải, Đàn Xã Tắc, Đàn Âm Hồn, Viện Cơ Mật, Khâm Thiên Giám, Xiển Võ Từ, Sông Ngự Hà và hơn 40 hồ lớn nhỏ thuộc hệ thống thủy đạo…

Di tích Kinh Thành Huế, bao gồm: - Hệ thống tường thành Huế dài 11,5km; cao 6,60m và rộng 21,0m; - Hệ thống Eo Bầu gồm có 24 eo bầu; - Hệ thống tuyến phòng lộ, chạy bao bọc xung quanh có chiều rộng 8,0m; - Hệ thống Hộ thành hào, tiếp giáp tuyến phòng lộ chạy bao bọc xung quanh hệ thống tường thành, dài 12,5km, bề rộng từ 17m đến 50,0m và sâu khoảng 3,5m. Hai bên hộ thành hào đều có hệ thống kè đá hộc sâu 3m và giải tỏa khu vực cách mép kè ngoài 6m để xây dựng tuyến đường bảo vệ xung quanh Kinh Thành.

Rõ ràng Kinh đô Huế là một mẫu mực hiếm có về quy hoạch và xây dựng một kinh đô phong kiến phương Đông còn lưu giữ được khá nguyên vẹn tổng thể kiến trúc cung đình, với hệ thống thành quách, cung điện, miếu đường, đền đài, lăng tẩm, chùa quán, cầu cống,… Di sản văn hóa Huế là kiệt tác nghệ thuật của nhân dân lao động, của đội ngũ nghệ nhân có “bàn tay vàng”, tài hoa, ưu tú, xuất chúng nhất cả nước trải qua bao thế hệ, suốt chiều dài lịch sử mới đúc kết thành.

Chính vì vậy vào ngày 11/12/1993, Quần thể di tích Cố đô Huế chính thức được ghi vào Danh mục Di sản Thế giới của UNESCO, đây là di sản thế giới đầu tiên của Việt Nam. Việc bảo tồn di tích là hết sức quan trọng. Quyết định 818/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ghi rõ: “Bảo tồn di sản văn hóa Cố đô Huế. Phát huy các giá trị quý giá của di sản văn hóa Cố đô Huế, bao gồm di sản văn hóa vật thể, di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa môi trường cảnh quan đô thị và thiên nhiêntrong việc giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc và nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân”.

Thực tế, từ khi vua Bảo Đại thoái vị (1945), kết thúc chế độ phong kiến ở Việt Nam, trong Nội Thành không ai quản lý; mặt khác do tình hình chiến tranh loạn lạc (đặc biệt trong hai cuộc kháng Pháp, kháng Mỹ, vùng ngoại ô của Kinh Thành là vùng hoạt động của cách mạng và vùng thường bị càn quét của lính Mỹ) nên dân cư từ các làng xã lân cận tràn vào sinh sống trong Thành Nội, dọc phía trước Phu Văn Lâu, dọc theo bờ sông đến chân cầu Bạch Hổ, kể cả trước khu vực Miếu Long Thuyền, hình thành các cụm dân cư. Người dân di dời vào Thành Nội, sống men theo Thượng Thành và các Eo Bầu; ban đầu họ lấy mặt thành làm vườn trồng rau, hoa màu ngắn ngày, sau gia đình phát triển nhiều thế hệ, mặt thành được dùng làm nhà ở.

Hiện nay toàn bộ khu dân cư phía trước Phu Văn Lâu đến chùa Thiên Mụ đã được giải tỏa, vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông Thơm được phục sinh. Vấn đề lớn bây giờ là cần trả lại vẻ đẹp cổ kính, tinh tế, liêu trai, huyền diệu, độc đáo vốn có của Kinh Thành.

Xung quanh di tích Kinh Thành Huế, ngay trên khu vực Thượng Thành và các vọng lâu tại các cổng thành vẫn đang hiện diện 13 lô cốt quân sự (bê tông cốt thép, có từ trước 1975) cần có giải pháp tháo dỡ hoặc di chuyển vì gây phản cảm, dễ là nơi tập trung tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến cảnh quan và giá trị di tích. Vừa qua, những lô cốt như trên tại cửa Đông Ba, cửa Thượng Tứ đã được tháo dỡ và di chuyển trong quá trình trùng tu tôn tạo phục hồi.

Theo thống kê (chưa đầy đủ) của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, từ năm 1995 có 1838 hộ dân (hộ chính) sống tại khu vực I di tích Kinh Thành, đến năm 2003 tăng thêm 438 hộ. Cho đến nay (2018) chủ yếu trong các khu vực Thượng Thành, Eo Bầu, Hộ Thành Hào, Phòng lộ Kinh Thành, Khâm Thiên Giám, Xiển Võ Từ, Lục Bộ, Hồ Tịnh Tâm, Hồ Học Hải, Đàn Xã Tắc, Trấn Bình Đài và các hồ trong Kinh Thành có khoảng 4200 hộ dân sinh sống (có gần 50% là hộ phụ).

Tại khu vực phía Nam di tích Kinh Thành Huế, hiện đang triển khai thực hiện các gói thầu tu bổ tường thành, phục hồi các eo bầu và các pháo nhãn.

Song song với công cuộc bảo tồn trùng tu các di tích, công tác di dời giải tỏa tại các khu vực bảo vệ di tích cũng được tiến hành. Trong thời gian hơn 20 năm, với nỗ lực của các cấp, các ngành, nhưng chỉ mới di dời giải phóng được khoảng 1050 hộ dân ra khỏi khu vực I bảo vệ di tích như: Sông Ngự Hà, Tôn Nhân Phủ, Đàn Xã Tắc, Lầu Tàng Thơ, khu vực Thượng Thành và eo bầu mặt Nam, Đàn Âm hồn,…

Tôi đến thăm Thượng Thành, Eo Bầu, Hộ Thành Hào,… đều thấy đa số người dân ở đây nghèo thật, sống chen chúc nhiều thế hệ trong một gia đình đất chật người đông, làm đủ nghề: cắt tóc, buôn bán, thợ mộc, thợ nề, lái xe ôm, đạp xích lô,…; đều dễ đồng cảm với ước mơ sâu thẳm (thoát khỏi những ngôi nhà tạm) của những chủ hộ gia đình ở đây.

Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên” - Nhà thơ Nguyễn Bính đã nói hộ tấm lòng của nhiều người Huế xưa, Huế xa, Huế nay. Có một Ngự Viên nay nhớ một Ngự Viên xưa. Có một Nội Thành nay nhớ Thành Nội xưa. Và cũng để thấy việc chính quyền địa phương muốn làm gì đó cho Huế đẹp như và hơn xưa là không hề dễ dàng, nói không ngoa là chưa bao giờ khó như hôm nay, nếu muốn trả lại sắc diện kinh đô cho Thành Huế. Vì chúng ta phải vừa nhanh chóng sửa những vết xước lịch sử để lại (di dời giải tỏa cư dân tại các di tích), vừa tiếp tục công cuộc bảo tồn trùng tu các di tích, vừa phải kiến tạo sức sống trẻ cho các di tích và việc quan trọng song hành là phải đảm bảo cho dân di dời được an cư lạc nghiệp nơi định cư mới (trong tình hình Huế và cả nước vẫn còn “chống dịch Covid như chống giặc”).

Riêng việc giải phóng mặt bằng, tỉnh Thừa Thiên Huế đã khái toán tổng kinh phí di dời qua 2 giai đoạn:

1. Giai đoạn 2019 - 2021, số hộ 2.938: 1.880 tỷ đồng.

2. Giai đoạn 2022 - 2025, số hộ 1.263: 855 tỷ đồng.

Tổng cộng là 4201 hộ với tổng kinh phí: 2.735 tỷ đồng.

Lên làm Chủ tịch UBND tỉnh, ông Phan Ngọc Thọ rất năng nổ, nhiệt huyết, được xem là “Kiến trúc sư trưởng”, “Thuyền trưởng” của Đề án di dân Kinh Thành Huế. Cảm tấm lòng ông, tôi hỏi:

- Ông nghĩ sao về việc giải phóng mặt bằng khu vực I hệ thống di tích Kinh Thành Huế?

Ông trả lời:

- Cả nước mình có cố đô ở Hà Nội, Thanh Hóa, Ninh Bình, Phú Thọ có nơi đâu giữ được nguyên vẹn quần thể di tích (trong và ngoài Kinh Thành) như ở Huế. Nếu không giữ được văn hóa Kinh Thành thì còn đâu Huế nữa.

Để hiểu thêm ý tưởng văn hóa của ông Phan Ngọc Thọ, chúng tôi đến thăm gia đình ông Quy đã xây nhà trên Thượng Thành 60 năm nay. Đường lên nhà ông Quy là leo dốc, ngoắt ngoéo, chỉ rộng chừng 1 mét. Đây là ngôi nhà 3 gian thờ ông bà tổ tiên, rất sang trọng đẹp, mang đầy màu sắc Huế. Ông Quy đón chúng tôi rất niềm nở:

- Tôi có đi dự cuộc gặp gỡ 300 người dân Thượng Thành của ông Phan Ngọc Thọ. Ông Thọ khẳng định: “Dự kiến kế hoạch giải tỏa, chỉnh trang và điều chỉnh phạm vi khoanh vùng bảo vệ một số điểm di tích để ổn định cuộc sống của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia khai thác dịch vụ, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc giữ gìn, bảo vệ và phát huy giá trị di sản của dân tộc”. Và ông đã thực hiện đúng như vậy. Dân không đồng ý ở chung cư, ông tổ chức, xây dựng khu dân cư ở Hương Sơ cho dân có nhà ở riêng. Diện tích mỗi hộ 60 mét vuông, xây nhà 1 tầng, có tầng lửng. Nhận nhà mới dân mừng lắm. Gia đình tôi cũng chuẩn bị chuyển nhà đây, anh ạ. Vợ con tôi rất mừng sắp có nhà mới. Chúng tôi sẽ chuyển nguyên dạng nhà này xuống dưới đó. Có điều rất lạ là rất nhớ nơi mình đã ở.

Để minh chứng ý tưởng của ông Phan Ngọc Thọ, chúng tôi ra Hương Sơ thăm khu vực định cư của dân Kinh Thành, Eo Bầu chuyển về. Những dãy nhà mới xây gọn gàng, một khu tái định cư kiểu mẫu, điện đường đầy đủ, hàng cây xanh đang bắt đầu nẩy những chồi non, chẳng bao lâu bóng cây sẽ tỏa xanh những con đường rộng rãi. Nhà nào cũng rộng 60 mét vuông. Một tầng và tầng lửng rất xinh xắn.

Chúng tôi tới thăm nhà ông Thìn, ở Eo Bầu chuyển ra. Ông Thìn dẫn chúng tôi đi thăm nhà và nói:

- Ông Phan Ngọc Thọ giữ đúng lời hứa, lo nhà cửa cho dân, định cư đàng hoàng cho dân mau chóng ổn định đời sống. Gia đình tôi đất rộng, được đền bù khá hơn, nên tôi đủ sức xây nhà 2 tầng. Anh biết vợ con tôi nói sao không? Vợ con tôi bảo: Đây chính là ước mơ của mình. Còn các gia đình khác, bình thường, ổn định 200 triệu đồng là có nhà rồi.

Vậy đó, từng bước một, Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đối thoại với các hộ dân bị thu hồi đất tại các khu vực Kinh Thành Huế, chỉ đạo cơ quan chức năng tổng hợp phân loại kiến nghị của người dân thuộc đề án di dời dân cư (ngay việc này, do đề phòng dịch Covid 19, cơ quan chức năng đã chia làm 2 đợt đối thoại công phu, thấu lý đạt tình).

Với hơn 4.200 hộ dân phải di dời, vì vậy được chia làm 2 giai đoạn:

- Giai đoạn 1 (2019 - 2021), di dời 2.938 hộ dân ở các khu vực Thượng Thành, Eo Bầu, Hộ Thành Hào và tuyến Phòng Lộ.

- Giai đoạn 2 (2022 - 2025), sẽ tiếp tục di dời 1.263 hộ dân ở các di tích Hồ Tịnh Tâm, Hồ Học Hải, Khu Lục Bộ, Đàn Xã Tắc, Khâm Thiên Giám, Trấn Bình Đài, hệ thống hồ 4 phường Nội Thành thành phố Huế.

Lời hứa của Chủ tịch tỉnh Thừa Thiên Huế: “Sẽ không để người dân nào bị bỏ lại phía sau trong cuộc di dân lịch sử này”; “Chính quyền sẽ cố gắng hết sức để bà con được đến một nơi ở mới hiện đại, tiện nghi và xanh - sạch - sáng hơn nơi ở cũ” như đóng đinh vàng vào trái tim không chỉ của những người dân thuộc diện di dời mà còn làm nức lòng mọi người dân Huế, những người yêu Huế gần xa, trong và ngoài biên giới địa lý…

Chuyện di dời dân cư trong Kinh Thành ra định cư ở vị trí mới không phải bàn cãi thêm nữa. Tôi hỏi anh Minh, một thành viên của UBND tỉnh đi cùng chúng tôi:

- Năm 2020 đã có bao nhiêu hộ được chuyển ra khu tái định cư Hương Sơ?

Anh đáp:

- Năm 2020 đã chuyển ra được 657 hộ.

Tôi định hỏi anh thêm, chừng bao lâu nữa thì chuyển hết 4200 hộ ra khỏi khu di tích. Nhưng tôi thấy câu hỏi ấy thật thừa, vì tôi đã biết kế hoạch sẽ hoàn thành vào năm 2025 với tổng kinh phí là 2735 tỷ đồng. Nếu gặp thuận lợi thời gian giải quyết sẽ nhanh hơn. Nếu gặp khó khăn thời gian giải quyết có thể lâu hơn chút ít, dù gì thời gian giải quyết cũng không thể chậm để dân Thượng thành, Eo Bầu, Hộ Thành Hào,… cũng mau chóng được tận hưởng bản sắc văn hóa Kinh Thành và Huế mãi mãi là Huế thân yêu của chúng ta như ý tưởng của Chủ tịch UBND tỉnh Phan Ngọc Thọ.

N.Q.H
(SHSDB41/06-2021)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ MINH PHONGDọc theo đôi bờ Sông Hương, nơi có những công viên quyến rũ là điểm trưng bày của một số công trình nghệ thuật.

  • NHỤY NGUYÊN(Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương)

  • LÊ PHÙNGSau nhiều ngày cùng nhau trăn trở - nghĩ suy - hiệp lực - hiệp tâm của những anh, chị em nhạc sĩ ở Huế, Nhạc Quán đã chính thức trình làng với công chúng yêu thích âm nhạc tại Huế vào lúc 20h, ngày chủ nhật (02/01/2011) là ngày Đinh Tỵ (nguyệt đức hợp, tế tự, đính hôn) trong tiết trời vào xuân của Huế, có sáng nắng chiều mưa, có gió về đêm, có lòng người ấm áp, có không gian lãng mạn, trữ tình.

  • HỒ VĨNHMới đây trong quá trình sưu tầm tư liệu Hán Nôm tại Cố đô Huế, chúng tôi tìm thấy được một văn bản có liên quan đến Phường Đúc Huế.

  • TƯỜNG THITôi trở lại Hương Trà bằng ký ức của hơn 20 năm trước, trên con đường đất băng qua những vườn thanh trà trĩu quả ven con sông Bồ thơ mộng để đến làng Lại Bằng, xã Hương Vân. Một xã tiếp giáp núi và đồng bằng, nơi đã ghi lại dấu ấn lịch chống giặc ngoại xâm của Thừa Thiên Huế - địa đạo Khe Trái.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTrong những năm gần đây, Huế đã được các nhà đông phương học và khách du lịch trong nước và ngoài nước lưu ý.

  • MAI KHẮC ỨNGLăng Minh Mạng nằm dưới chân núi Cẩm Kê thuộc thôn La Khê làng An Bằng huyện Hương Trà cũ, nay là thôn Liên Bằng, xã Hương Thọ, thành phố Huế. Địa thế dải đất này rất đẹp. Hiện thời cây cối ở chung quanh đã lùi xa để lại những khoảng trống nối dài trên các triền đồi thoai thoải, khu lăng trở nên lẻ loi hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂMCó lẽ một trong những loài động vật gần gũi, gắn bó với người dân xứ Huế trong mọi thời cuộc là loài hến. Cho dù trải qua bao thăng trầm, bao biến cố trên mảnh đất nhỏ bé này, mọi thứ có thể thịnh suy nhưng hến vẫn trường tồn. Trường tồn như một nét văn hóa thầm lặng, khiêm tốn, không khua trương, ồn ào,… mà âm thầm tỏa ngát hương.

  • PHAN HỨA THỤYChùa Thiên Mụ là một công trình kiến trúc có qui mô lớn và xuất hiện khá sớm trong quá trình hình thành phát triển của văn hoá Phú Xuân. Cũng như phần lớn các công trình kiến trúc cổ khác, chùa Thiên Mụ từ khi mới được xây cất trở về sau lần lượt đã được dựng nhiều tấm bia, hoặc để ghi lại công việc tu tạo, hoặc đề thơ vịnh cảnh, hoặc ghi cảm tưởng trong những lần vãn cảnh chùa của một số vua chúa nhà Nguyễn.

  • NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(Tiếp theo SH số 5 – tháng 2 - 1984)

  • NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(B.A.V.H. 1992, trang 189-203)HỒ TỊNH TÂM - Từ thời Gia Long, khi xây kinh thành Huế, một nhánh sông đã được ngăn chặn lại ở trên làng Kim Long hiện nay và dòng sông đó bị lấp đi ở một vài nơi, một số nơi khác thì được mở rộng và uốn nắn lại cho đều đặn. Chính một phần của nhánh sông ngày xưa ấy đã tạo ra Hồ Tịnh Tâm, nay ở tại bên trái đường Lục bộ, gần với Cầu kho, hay vùng nhượng địa (cho Pháp ở Mang Cá lớn).

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó lẽ thiên nhiên đã giữ một vai trò nào đó, thực quan trọng, trong sự tổng hợp nên cái mà người ta có thể gọi là “bản sắc Huế”. Bởi vì thiên nhiên bao giờ cũng biểu hiện một cách nhất quán giữa cái hằng cửu và cái biến dịch, giữa cái biến động và cái tĩnh tại.

  • MAI KHẮC ỨNGBất chợt. Tưởng như có con lợn chạy giữa sân điện Cần Chánh tại Hoàng thành Huế. Định thần lại tôi đã nhìn thấy chúng trong mấy ô trang trí bên thân hai chiếc vạc đồng đúc thuở Kim Long còn là phủ chúa dưới thời Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) mà lạc khoản lại ghi Thịnh Đức thứ 8 và Thịnh Đức thứ 10. Bản chú thích bên hai vạc này ghi là đúc năm 1660 và 1662.

  • L.N.D: Vào năm 1822, dưới triều Minh Mạng, một người Anh là John Crawfurd có dịp đến Huế và được hai người Pháp lúc bấy giờ đang làm quan ở đây là Chaigneau và Vannier hướng dẫn đi thăm Kinh Thành. Dưới đây là những gì mà Crawfurd đã viết về Huế trong ngày viếng thăm ấy: 29-9-1822. Chúng tôi dịch từ bản Pháp ngữ của H.Cossarat trong B.A.V.H. 1933, No1-2, tr.5-10.

  • PHẠM ĐĂNG TRÍThuở ấy, có nhiều người từ những miền đất màu mỡ nhưng vẫn dời nhà đến ở trên một vùng gò đồi đầy sỏi đá. Nguyên nhân lôi cuốn họ tới đây là do màu sắc thiên nhiên ở chốn này thật là thanh tú, đa dạng và không ngừng thay đổi.

  • LÊ VĂN HẢOTháng 12 năm 1979 tại thành phố Pitxanulôcơ (Pitsanulok) Thái Lan, ông Tổng Giám đốc Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc (gọi tắt là UNESCO) đã triệu tập một cuộc họp của những chuyên gia nhằm chuẩn bị cho một Chương trình nghiên cứu các đô thành lịch sử ở châu Á. Chương trình này sẽ nhằm vào một số đô thành cổ kính đã từng đóng những vai trò có ý nghĩa trong sự phát triển và giao lưu của các nền văn hoá ở châu Á.

  • Chiều 8.6, tại Nam Châu Hội Quán trên vùng cỏ cây Kim Long xứ Huế, GALA TINH HOA SÔNG HƯƠNG đã được tổ chức nhằm tôn vinh Nhà xuất bản Tinh Hoa - Huế.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNỞ mục “Phương vị quê hương” này, tạp chí sẽ lần lượt đăng các bài tìm hiểu văn hoá ngắn gọn nhưng có… duyên văn chương. Chúng tôi vui mừng được sự hưởng ứng của các nhà nghiên cứu lão thành am hiểu Huế - Bình Trị Thiên như các cụ Bửu Kế, Phan Văn Dật, Nguyễn Hữu Đính, Phạm Đăng Trí… cùng các anh Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Thuận An… Chúng tôi cũng mong nhận được bài của các bạn ở các tỉnh miền Trung nói về phong vị quê hương mình để tạo được giao lưu văn hoá trên giải đất gắn bó lâu đời này.

  • MẶC KHÁCHHuế nguyên là đất đế đô, nơi sinh trưởng của vua chúa, chốn triều đình quan lại, đa số tao nhân mặc khách đều tụ họp về đây. Do đó mà tiếng nói của xứ Huế, trang nhã thanh tao, có khi lại nặng mùi “bề trên” hoặc kiểu cách đến buồn cười.

  • NGUYỄN HỮU ĐÍNHMột nhà văn tên tuổi địa phương - địa phương nhưng kiêm cả Trung ương - đã say sưa mô tả con sông Hương, với một đầu đề trớ trêu và duyên dáng: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Trớ trêu và duyên dáng hơn nữa là nêu lên câu hỏi mà không chịu trả lời.