NGÔ MINH
Đối với anh em làm thơ, viết văn ở ba tỉnh Bình - Trị - Thiên trong nhiều chục năm qua, nhà thơ Hải Bằng là người không thể quên!
Cố nhà thơ Hải Bằng - Ảnh: SH
Ông dự phần trong cuộc sống vui buồn hờn giận của mọi người, ông mắng mỏ, “chửi bới” người này, yêu mến, ca ngợi người kia một cách công khai và hết lời, không hề toan tính. Ông khóc đó rồi cười đó như một đứa trẻ. Dường như tuổi tác không ảnh hưởng lắm đến cách sống bản năng, trực cảm mạnh mẽ của ông. Đã có không ít người hàng ngày khó chịu vì bị ông phê phán, công kích về một việc gì đó, nhưng vài ba tuần không được gặp ông, không được nghe ông đọc thơ hay “chửi bới” ai cũng cảm thấy trống vắng như bị thiếu một thứ gì đó. Ông làm thơ rất nhanh, cảm mến ai lập tức ông có bốn câu thơ tặng kèm theo bức ký họa chân dung hóm hỉnh. Đến chơi nhà ông, bao giờ khách cũng được “tra tấn” mươi bài thơ mới viết, sau đó mới nói chuyện gì thì nói! Ông có cuộc đời thơ ôm trùm hai cuộc kháng chiến và hơn 20 năm hòa bình, đổi mới. Cuộc đời của ông trọn vẹn chìm nổi với thơ, cho thơ. Ông là nhà thơ duy nhất ở Huế có 2 tấm thẻ hội viên trong hành trang của mình. Thẻ Hội Viên Hội Văn Nghệ Việt Nam năm cấp 1950 và thẻ Hội Viên Hội Nhà Văn Việt Nam năm cấp 1985.
Là hậu duệ của vua Hiệp Hòa (triều Nguyễn), mới 14 tuổi đã từ bỏ cuộc sống nhung lụa giàu sang để đi theo Vệ Quốc Đoàn, theo tiếng gọi của tâm hồn tràn ngập lãng mạn Cách mạng tháng Tám trở thành chiến sĩ trung đoàn 101 nổi tiếng của Việt Minh vùng Trị Thiên - Huế từ năm 1945. Những bài thơ của ông xuất hiện lần đầu tiên tại chiến khu Dương Hòa, Ba Lòng năm 1948, trong đó có bài thơ hay “Em, nữ cứu thương người Pháp”. Bài thơ làm cho ông nổi tiếng trong làng văn nghệ kháng chiến lúc đó, đồng thời cũng gây nên rắc rối cho ông vì có người thiển cận cho rằng quan điểm địch, ta trong bài thơ không rõ ràng! Mùa hạ năm 1952, trước khi rời chiến khu Ba Lòng, ông đã cùng với người bạn thân trong Phòng chính trị Phân Khu Bình Trị Thiên lúc đó là họa sĩ Trần Quốc Tiến rủ nhau làm mỗi người một bài thơ bỏ vào hũ sành chôn ở bờ sông trong rừng với lời hẹn 100 năm sau sẽ trở về thăm lại chiến khu xưa! Bài thơ ông viết lúc đó dài 160 câu có tựa đề là “Trăm năm rừng cũ”.
Theo đoàn quân 325 tình nguyện Việt - Lào, ông có “Trường ca Đoàn quân 325”, trường ca “Bài thơ rừng hoa Chăm Pa”. Những bài thơ dài này chưa được in ra, nét chữ chép tay của ông lâu ngày đã mờ phai, nhưng vẫn được bảo quản cẩn thận. Sau năm 1954, tập kết ra Bắc, công tác ở Hà Nội, ông vẫn đều đặn làm thơ và in thơ trên các báo ở thủ đô với bút hiệu Văn Tôn. Năm 1958 sau sự kiện nhân văn giai phẩm ông về làng Cảnh Dương (Quảng Bình) cùng bà con ngư dân ra khơi kéo lưới hay câu cá đêm một mình bên bờ sông Loan, như một ẩn sĩ. Đây là bước ngoặt lớn trong đời thơ của ông. Thơ đã đưa ông từ một cậu thiếu niên con quan, dòng hoàng tộc đến với cách mạng, với đoàn quân chiến thắng. Rồi cũng chính thơ kéo ông về với nỗi cô đơn, đau khổ nơi làng quê heo hút! Nhưng ông vẫn không từ bỏ thơ. Nhớ về những ngày gian nan đó, sau này có lần ông tâm sự: “sống chết với thơ nên chẳng mấy khi tôi được yên ổn. Nhờ không được yên ổn tôi mới có thơ”. Năm 1958 ông được Nhà nước bố trí công tác tại Ty Kiến trúc, sau đó chuyển sang Ty Văn Hóa Quảng Bình. Ông làm nghề bán sách lưu động. Hàng ngày ông đạp xe chở sách đi bán ở các huyện xa ba bốn chục cây số, vất vả, mệt nhọc! Nhưng ông vẫn miệt mài hăng say sáng tạo thi ca bên cạnh những người bạn thơ tài hoa, tốt bụng như Hà Nhật, Xích Bích.. Ông làm nhiều thơ về sản xuất, xây dựng, làm thơ ca ngợi cuộc chiến đấu anh hùng của quân dân Khe Sanh, Quảng Trị của Huế quê hương.. in ở nhiều báo ở Hà Nội với nhiều bút hiệu như Nguyễn Hương Trà, Lý Xuân.. Đặc biệt ông làm rất nhiều thơ về tình yêu và biển. Biển như một nhà hiền triết lớn, một người bạn giúp ông vô số lời giải về cuộc sống và thân phận để biết vượt lên trên con đường thơ đã chọn! Chính mảnh đất nghèo khó và đạn bom ác liệt Quảng Bình đã đùm bọc, cưu mang ông, đã cho ông cuộc sống gia đình, bè bạn và vốn sống để đi tới.
Tháng 5-1965, trong chuyến về thăm Quảng Bình, nhà thơ Xuân Diệu rất tâm đắc với bài thơ Cồn Cỏ của ông. Sau đó bài thơ đã được giải thưởng trong cuộc thi thơ của Báo Văn Nghệ. Đó là lần đầu tiên bút hiệu Hải Bằng xuất hiện trên văn đàn Việt cho đến hôm nay! Bài thơ đã giải phóng ông ra khỏi nỗi cô đơn, mặc cảm, trả ông về với đội ngũ những người cầm bút Việt Nam!
Năm 1975, ông đã khóc như một đứa trẻ sau 30 năm xa quê hương, nay được trở về trong niềm vui giải phóng. Những năm tháng này thơ Hải Bằng òa vỡ, dào dạt, chứa chan. Ông viết ngày viết đêm. Viết rồi chép nắn nót thành từng tập thơ cất vào túi, vì không in ra được. Ông vừa làm thơ vừa vẽ tranh và tạo hình bằng rễ cây. Những “tác phẩm rễ cây” của ông là những bài thơ độc đáo, lạ lùng được khai quật lên từ lòng đất! Mãi tới năm 1980, khi ông 50 tuổi, lương 50 đồng, ông mới được in chung một tập thơ mỏng, tập Hát về ngọn lửa. Năm 1988, khi các nhà thơ có thể tự bỏ tiền ra in thơ một cách thoải mái, thì ông lại quá nghèo và bị căn bệnh hiểm nghèo ung thư vòm họng! Từ đó sức khỏe ông suy sụp hẳn. Suốt 10 năm qua ông không ăn được cơm như người thường. Đi dự liên hoan, chiêu đãi ông chỉ ngồi chơi, nhìn anh em vui. Kỳ lạ thay, chính giai đoạn “chạy đua với thần chết” này, thơ Hải Bằng lại nở rộ hơn bao giờ hết, ông đã vắt kiệt mình để cho ra đời thêm 11 tập thơ mới gồm đủ thể loại thơ hai câu, thơ bốn câu, thơ lục bát, tứ tuyệt, thơ văn xuôi.. Công sức sáng tạo của ông đã được đền bù bằng giải thưởng của UBTQ Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam (tập thơ Sóng đôi bờ), Tập Thơ tình Hải Bằng và bức tranh thuốc nước Mưa Huế được giải thưởng Văn Học cố Đô. Tập thơ cuối cùng, tập thơ thứ 13 của ông đã có giấy phép nhưng chưa kịp in có cái tên thật định mệnh: Độc Hành!
Vâng, bây giờ thì ông thực sự đi một mình trong cõi vô cùng của trời đất. 10 năm qua, ông đã vật lộn với bệnh tật và thời gian nghiệt ngã để có những bài thơ. ln xong thơ rồi phải tự mình mang đi bán, đặng lấy tiền mà in tập sau! Ông mang vác thơ trên thân hình khô gầy của mình như bức tượng người dân Chúa còng lưng vác cây thập giá khổng lồ nhọc nhằn đi trên con đường đức tin thăm thẳm mà tôi từng thấy ở nhà thờ nọ! Đó là hình ảnh đẹp nhất của một nô bộc tận tụy, thủy chung của Đấng Thi Ca linh hiển!
Huế, ngày 17 tháng Mậu Dần
N.M
(TCSH114/08-1998)
50 năm ngày mất Giáo sư Đặng Văn Ngữ
ĐẶNG NHẬT MINH
Nhân 110 năm ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC (1907 - 2017)
TRẦN VIẾT NGẠC
NGUYỄN HOÀNG THẢO
Trước khi có chợ, bên ngoài cửa Ðông Ba (cửa Chánh Đông) dưới thời vua Gia Long có một cái chợ lớn mang tên “Qui Giả thị” - chợ của những người trở về.
NGUYỄN KỲ
Cuộc vận động tranh cử và “đấu tranh nghị trường” trong thời kỳ 1936 - 1939 do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo là một bộ phận đặc biệt trong cuộc đấu tranh vì quyền dân sinh dân chủ ở Việt Nam.
DÃ LAN NGUYỄN ĐỨC DỤ
Thú thật với độc giả, một trong những điều vui thú nhất của tôi - cho tới nay tôi vẫn say mê - là sưu tầm khảo cứu về Phổ trạng (tức là lai lịch, nguồn gốc...) của các nhân vật lịch sử như Ngô Quyền, Nguyễn Xý, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Phạm Ngũ Lão, Phạm Sư Mạnh...
LÂM QUANG MINH
Tôi không có vinh dự như nhiều anh chị em cán bộ, dũng sĩ từ miền Nam ra Bắc công tác, học tập hay chữa bệnh, được trực tiếp gặp Bác Hồ, được Bác ân cần động viên dạy bảo, được cùng ngồi ăn cơm với Bác, được Bác chia bánh chia kẹo... như người cha, người ông đối với các con cháu đi xa về.
THANH HẢI
Hồi ký
Tháng 10 năm 1962, tôi được vinh dự đi trong đoàn đại biểu mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc. Lần đó một vinh dự lớn nhất của chúng tôi là được gặp Hồ Chủ Tịch.
Giáo sư Bửu Ý, tên đầy đủ là Nguyễn Phước Bửu Ý, sinh năm 1937 tại Huế. Ông vừa là nhà giáo, nhà văn, vừa là dịch giả của các tiểu thuyết nổi tiếng như Nhật kí của Anna Frank, Đứa con đi hoang trở về, Bọn làm bạc giả của André Gide, Con lừa và tôi của Juan Ramón Jiménez; Thư gửi con tin của Antoine de Saint-Exupéry… đăng trên các tạp chí Mai, Văn, Diễn đàn, Phố Văn (trước 1975).
I. Nhớ hơn bốn mươi năm về trước, vào khoảng đầu mùa đông năm 1974 - mùa dỡ củ dong riềng - tôi đi chợ Chũ (Lục Ngạn), mua được tập truyện Khúc sông. Trên lối mòn đường rừng, bước thấp bước cao, tôi vừa đi vừa tranh thủ đọc. Ngày ấy, tôi chỉ biết tên tác giả là Nguyễn Thiều Nam, nào có biết đẳng cấp của ông trong làng văn ra sao!
Sinh thời, cha tôi – họa sỹ Trịnh Hữu Ngọc, hầu như không bao giờ nhắc đến những năm học vẽ ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (MTĐD).
HỒ QUỐC HÙNG
(Thân mến tặng các bạn lớp Văn K9 - Đại học Tổng hợp Huế)
Ai cũng có kho ký ức riêng cho chính mình như một thứ tài sản vô hình. Ký ức lại có những vùng tối, vùng sáng và lúc nào đó bất chợt hiện lên, kết nối quá khứ với hiện tại, làm cho cuộc sống thêm ý vị.
TRẦN VĂN KHÊ
Hồi ký
Có những bài thơ không bao giờ được in ra thành tập.
Có những bài thơ chỉ còn ghi lại trong trí nhớ của tác giả và của đôi người may mắn đã được đọc qua một đôi lần.
Ngắm nhìn vẻ đẹp tinh khiết của cô nữ sinh Đồng Khánh dưới vành nón Huế, trong chiếc áo dài trắng tinh khôi, không ai nghĩ chỉ ít năm sau ngày chụp bức ảnh chân dung ấy, chị chính là nạn nhân của một chế độ lao tù tàn bạo và nghiệt ngã.
Trong quy hoạch một đô thị văn minh, vỉa hè là khoảng công cộng dành cho người đi bộ. Còn theo kiến trúc, vỉa hè là đường diềm, trang trí cho phố phường tạo ra sự hài hòa giữa đường và nhà mặt phố. Người Pháp đã làm những điều đó ở Hà Nội từ cuối thế kỷ 19.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Hồi những năm 1950, làng Trúc Lâm quê tôi thuộc vùng du kích ven thành phố Huế.
QUẾ HƯƠNG
Ngày 15/7/2017 tới đây, ngôi trường hồng diễm lệ nằm cạnh trường Quốc Học, từng mang tên vị vua yểu mệnh Đồng Khánh chạm ngưỡng trăm năm.
THÁI KIM LAN
Trong những hình ảnh về ngày Tết mà tôi còn giữ được thời thơ ấu, thì Tết đối với tôi là Tết Bà, mà tôi gọi là Tết Mệ Nội chứ không phải Tết Mạ. Bởi vì mỗi khi Tết đến, cả đại gia đình chúng tôi đều kéo nhau lên nhà Từ đường “ăn Tết", có nghĩa quây quần chung quanh vị phu nhân trưởng tộc của dòng họ là bà nội tôi.
TRẦN VIẾT NGẠC
Báo Xuân xưa nay luôn là số báo đẹp nhất, phong phú nhất trong một năm. Bài vở số Xuân được tòa soạn đặt bài trước cho các cây bút thân quen, nổi tiếng từ mấy tháng trước.
NGUYÊN HƯƠNG
Trong đời, người ta ai cũng nên phải lòng một vùng đất. Cảm giác đó thật đặc biệt, giống như khi ta một mình đi đêm về sáng, bỗng gặp đóa hoa cô đơn thức sớm nở ngoài thềm, thấy thương.
BÙI KIM CHI
Tôi đã rất xúc động. Lòng rưng rưng bồi hồi khi tình cờ nghe được bài hát “Quê hương tuổi thơ tôi” của Từ Huy trong VCD họp mặt Đồng Hương Sịa lần đầu tiên ở Little Sài Gòn, Nam Cali…