Báo Tin Tức Chúa Nhựt, 3.11.1940 mở đầu bằng mấy hàng như sau: “Hai mươi chín tháng Chín Annam (20 Octobre 1940). Thêm một ngày đáng ghi nhớ. Một người đã mất: cụ Sào Nam Phan Bội Châu”
Thi sĩ Hàn Mặc Tử
Báo Người Mới: số 4 (16.11.1940) kết thúc tin buồn “Hàn Mạc Tử đã qua đời” bằng một lời tương tự: “Chúng ta đã mất một người”
Đơn giản mà thấm thía. Một ý nghĩa nảy từ hai cuộc đời, hai sự nghiệp. Tưởng chừng “cách nhau ngàn vạn dặm”. Mà lại gặp nhau trong chí hướng. Trong thân phận hẩm hiu nhưng nhà thơ đã phát huy mọi khả năng tâm não. “Đã sống mãnh liệt và đầy đủ... Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn… Đã phát triển hết cả cảm giác của Tình Yêu”.
Mối thần giao giữa Phan Bội Châu và Hàn Mạc Tử
Trong cùng số báo Tin Tức nói trên lại có bài “Trút linh hồn” của Hàn Mạc Tử với câu còn ngân dài, ngân dài mãi “như hình nhớ thương”:
Ta còn trìu mến biết bao người…
Và trong Tin Tức trước đó một kỳ (27.10.1940), Phan Sào Nam đã cảm tạ không kém thiết tha những người điếu sống cụ:
Những ước anh em đầy bốn biển
Ai ngờ trăng gió nhốt ba gian.
Trùng hợp trước hơi thở cuối cùng. Như đã trùng hợp ở bước đầu trên “Mộng Du thi xã”. Trong thần giao cách cảm. Tờ Phụ nữ tân văn (số 97, ngày 28.8.1931, tr.15) không ngờ đã xe mối duyên văn nghệ cho một nhà chí sĩ với một nhà thi sĩ. Bài “Phan Bội Châu tiên sanh mở hàng dạy thi” in ở trang trước, kèm bài thơ mẫu mượn hình ảnh chùa Phật để nói lên niềm non nước:
Ba chén xong rồi ai ấy bạn
Một pho kinh Phật một cây đèn.
thì ở ngay trang sau đã có bài “Chùa hoang” của P.T (Qui Nhơn) tức Phong Trần (Hàn Mạc Tử sau này) vọng lại:
Tiếng chuông tế độ rày đâu tá
Để khách trầm luân luống đợi chờ !
Mối thần giao kia chính cụ Phan đã nhìn nhận trong “một bức thơ” viết cho “P.T tiên sanh”, sau khi nhận được ba bài của thi sĩ gởi qua Thực Nghiệp Dân Báo (11.10.1931):
“Kính thưa tác giả P.T tiên sinh,
Tác giả cho tôi đọc ba bài thơ, tôi lấy làm hân hạnh cho “Mộng Du Thi Xã” lắm; xem trong u oán cao tình, thanh tân nhã điệu, tôi chỉ phàn nàn rằng người xướng quá cao tất nhiên người họa phải ít, cho nên tôi chỉ tục điệu ba bài thơ mà thôi, còn như nói rằng tôi nối thơ được với tác giả thì tôi không dám. Ôi! Hồn giao nghìn dặm biết làm sao bắt tay nhau mà cười lớn một tiếng mới là thỏa hồn thơ đó”.
(theo Tin Tức Chúa Nhựt đăng lại trong mục báo tin Hàn Mạc Tử qua đời, ở số 9, 24.11.1940, tr.3)
Trong lúc chưa được biết văn bản đầu tiên về lời cụ Phan khen Hàn, đây là lời trích sớm nhất hiện tìm được. Sớm hơn và có phần khác với lời trích của Quách Tấn trong bài “Hàn Mạc Tử với thơ đường luật”, trong Người Mới số 6 (30.11.1940, tr.4): “Từ về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều song chưa gặp được bài nào hay đến thế… Ôi hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ, để bắt tay nhau, cười lên một tiếng lớn ấy là thỏa hồn thơ đó.”
Chí sĩ Phan Bội Châu
* *
Các Bút Hiệu
Một điều đáng chú ý trong toàn văn bài này là Quách Tấn viết “Hàn Mạc Tử”, và tuy nói về các bút hiệu của Hàn nhưng chưa có giai thoại “vạch vành trăng non lên đầu chữ ‘a’ như trong Đôi nét về Hàn Mặc Tử, sau này.
Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử, Hàn Mạc Tử: chừng ấy vẫn chưa hết các bút hiệu của Phanxicô-Nguyễn Trọng Trí ! Còn Lệ Thanh nữ sĩ, Lệ Giang, Sông Lệ và cả… “Mlle Mộng Cầm” nữa, như Hàn đã ký cuối bài “Vô tình” trong báo Sài Gòn (7.12.35), sau trở thành “Bẽn Lẽn” của Hàn Mặc Tử trong Ngày Nay (6.9.36) rồi được đưa vào tập Gái Quê của Hàn Mặc Tử ! Ấy là chưa kể những “tên đẹp” khác hay “tên tếu” như Trật Sên, Cụt Hứng, Foong-Tchan v.v…
Gọi làm sao hết tên người ? Và dù không biết gọi thi sĩ Hàn Mạc Tử, nhưng chỉ biết sống với người sống bên mình, như anh Nguyễn Văn Xê hồi ở Qui Hòa thì cũng đã sao ?
Nhưng chứng tích của nhà thơ và nhà báo mệnh yểu danh thọ còn đó để giúp xác định lại những điểm mà trí nhớ trung thực của những người thân nghĩa nhất vẫn có thể vô hình không đúng với thực tế khách quan. Sự kiện tiêu biểu nhất là chính Hàn Mạc Tử, khi đăng lại hai bài “Chùa hoang” và “Gái ở chùa” cùng những bài họa của cụ Sào Nam và các bạn thơ trong phụ trương văn chương tờ Công Luận (9.3.1935, tr.5) cũng đã ghi chú lầm: “Hai bài này chúng tôi đã đăng ở Thực nghiệp Dân Báo năm 1930…”. Kỳ thực là năm 1931, số ra ngày 11 tháng 10. Đấy là mới chỉ cách non 4 năm. Huống hồ những hồi ký viết hàng chục năm sau. Nói thế không có nghĩa là phủ nhận giá trị của những tang chứng quý báu đã giúp gần gũi thực tế.
Vậy đối chiếu các tư liệu với những lời Quách Tấn viết theo trí nhớ về các bút hiệu của Nguyễn Trọng Trí, sẽ thấy những sự kiện sau đây:
1. MINH DUỆ THỊ : còn thấy xuất hiện năm 1935-1936, cuối những bài đường luật:
- “Cảm tác” (Thường thường trâu cột ghét trâu ăn), báo Sài Gòn, 12.10.35, tr.3.
- “Ban mai uống nước trà” và “Cây đàn nguyệt”, báo Sài Gòn, 30.12.35, tr.3.
- “Xuân về” (Ba vạn giang sơn khác hẳn rồi), báo Sài Gòn 3.2.36, tr.7.
2. PHONG TRẦN : ngoài thơ ra, còn ký 22 bài văn xuôi trong báo Tân Tiến (1936-1938) và 16 bài văn xuôi trong báo Tiến Bộ (1938-1939) thuộc đủ loại: phóng sự, thời đàm, xã thuyết, bình luận văn chương, truyện dài nghệ thuật…
3.LỆ THANH : vẫn ký song song với Hàn Mặc Tử trong các báo Công Luận (1934-1935), Tân thời (1935), Sàigòn (1935-1936). Và còn ký ở Trong Khuê phòng (1939) đồng thời với Hàn Mạc Tử.
4.HÀN MẶC TỬ : xuất hiện từ ngày 29.3.1934 trên phụ trương phụ nữ của tờ Công Luận, dưới hai bài đường luật “Gái chửa hoang” và “Vô đề”. Và thường xuyên trên các báo vừa kể trừ Trong Khuê phòng.
Những dữ kiện trên cho phép xác định lại đôi điểm có liên hệ đến niên biểu và việc sáng tác của Hàn:
Điển hình là trên cùng một trang Sài GònVăn Chương (phụ trương văn chương của báo Sàigòn) có bài của Minh Duệ Thị như đã dẫn trong mục 1, thì đồng thời cũng có những bài ký Lệ Thanh và Hàn Mặc Tử. Như vậy là ba bút hiệu một trật !
Sự thực thì ngay từ 29.3.1934 và trên Công Luận đã có bút hiệu Hàn Mặc Tử (có dấu ‘ă’) như đã dẫn ở số 4 đoạn trên. Và cũng trên Công Luận đã có những vần thơ mới đầu tiên, mở đầu và kết thúc của bài văn “Giấc mộng đêm thu” ký “Lệ Thanh nữ sĩ”:
Ôi trăng thu
Ôi trăng thu
Bóng nhạn tím sương đã mịt mù
Mối sầu tư
Bồng con giọt lụy năm canh nhỏ
Cơn mưa gió
Tê tái lòng em mấy điệu từ
Mảnh trăng thu.
(Công luận 22.3.1934, tr.3: Phụ trương phụ nữ)
Còn nếu kể bài thơ mới riêng biệt hẳn, thì cũng trên Công luận (6.4.1935, tr.5: Phụ trương văn chương) có bài “Sống khổ và phấn đấu” ký Hàn Mặc Tử, trước các bài thơ mới trên tờ Sàigòn:
Sao tôi thấy cuộc đời máu me lênh láng,
Như bãi sa trường trong lúc hỗn loạn.
Sao tôi thấy dân chúng bị lầm than
Dưới bóng mặt trời đầy dẫy hào quang…
* *
*
Đối với bút hiệu cũng như đối với bản thân và cuộc đời – qua các sáng tác của Hàn, những phần đã xuất bản và những phần chưa thành tập, một số thơ và khoảng 90 bài văn xuôi, trên gần 20 tờ báo ở cả Trung Nam Bắc - hình như nhà thơ không khai trừ đường lối gì, nhưng đón nhận muôn hình, muôn vẻ của cuộc sống và lòng người để khai phóng “hết những anh hoa huyền bí” và “quy tụ, thâu về một mối”.
Cái “mối” mà cụ Phan Sào Nam, chủ nhân “Mộng Du thi xã” đã gợi lại trong hai câu đối tặng khách hưởng ứng bốn phương, trong Thực Nghiệp Dân Báo, 23.8.1931:
Duyên văn tự lai lai láng láng nước biếc non xanh,
Mối tinh thần có có không không trời cao bể rộng
Trích từ báo Tin Nhà, số 3, 1992, Paris
Nguồn: Phạm Đán Bình - VHNA
Kỷ niệm 100 năm Trường Đồng Khánh
BÙI KIM CHI
50 năm ngày mất Giáo sư Đặng Văn Ngữ
ĐẶNG NHẬT MINH
Nhân 110 năm ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC (1907 - 2017)
TRẦN VIẾT NGẠC
NGUYỄN HOÀNG THẢO
Trước khi có chợ, bên ngoài cửa Ðông Ba (cửa Chánh Đông) dưới thời vua Gia Long có một cái chợ lớn mang tên “Qui Giả thị” - chợ của những người trở về.
NGUYỄN KỲ
Cuộc vận động tranh cử và “đấu tranh nghị trường” trong thời kỳ 1936 - 1939 do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo là một bộ phận đặc biệt trong cuộc đấu tranh vì quyền dân sinh dân chủ ở Việt Nam.
DÃ LAN NGUYỄN ĐỨC DỤ
Thú thật với độc giả, một trong những điều vui thú nhất của tôi - cho tới nay tôi vẫn say mê - là sưu tầm khảo cứu về Phổ trạng (tức là lai lịch, nguồn gốc...) của các nhân vật lịch sử như Ngô Quyền, Nguyễn Xý, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Phạm Ngũ Lão, Phạm Sư Mạnh...
LÂM QUANG MINH
Tôi không có vinh dự như nhiều anh chị em cán bộ, dũng sĩ từ miền Nam ra Bắc công tác, học tập hay chữa bệnh, được trực tiếp gặp Bác Hồ, được Bác ân cần động viên dạy bảo, được cùng ngồi ăn cơm với Bác, được Bác chia bánh chia kẹo... như người cha, người ông đối với các con cháu đi xa về.
THANH HẢI
Hồi ký
Tháng 10 năm 1962, tôi được vinh dự đi trong đoàn đại biểu mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc. Lần đó một vinh dự lớn nhất của chúng tôi là được gặp Hồ Chủ Tịch.
Giáo sư Bửu Ý, tên đầy đủ là Nguyễn Phước Bửu Ý, sinh năm 1937 tại Huế. Ông vừa là nhà giáo, nhà văn, vừa là dịch giả của các tiểu thuyết nổi tiếng như Nhật kí của Anna Frank, Đứa con đi hoang trở về, Bọn làm bạc giả của André Gide, Con lừa và tôi của Juan Ramón Jiménez; Thư gửi con tin của Antoine de Saint-Exupéry… đăng trên các tạp chí Mai, Văn, Diễn đàn, Phố Văn (trước 1975).
I. Nhớ hơn bốn mươi năm về trước, vào khoảng đầu mùa đông năm 1974 - mùa dỡ củ dong riềng - tôi đi chợ Chũ (Lục Ngạn), mua được tập truyện Khúc sông. Trên lối mòn đường rừng, bước thấp bước cao, tôi vừa đi vừa tranh thủ đọc. Ngày ấy, tôi chỉ biết tên tác giả là Nguyễn Thiều Nam, nào có biết đẳng cấp của ông trong làng văn ra sao!
Sinh thời, cha tôi – họa sỹ Trịnh Hữu Ngọc, hầu như không bao giờ nhắc đến những năm học vẽ ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (MTĐD).
HỒ QUỐC HÙNG
(Thân mến tặng các bạn lớp Văn K9 - Đại học Tổng hợp Huế)
Ai cũng có kho ký ức riêng cho chính mình như một thứ tài sản vô hình. Ký ức lại có những vùng tối, vùng sáng và lúc nào đó bất chợt hiện lên, kết nối quá khứ với hiện tại, làm cho cuộc sống thêm ý vị.
TRẦN VĂN KHÊ
Hồi ký
Có những bài thơ không bao giờ được in ra thành tập.
Có những bài thơ chỉ còn ghi lại trong trí nhớ của tác giả và của đôi người may mắn đã được đọc qua một đôi lần.
Ngắm nhìn vẻ đẹp tinh khiết của cô nữ sinh Đồng Khánh dưới vành nón Huế, trong chiếc áo dài trắng tinh khôi, không ai nghĩ chỉ ít năm sau ngày chụp bức ảnh chân dung ấy, chị chính là nạn nhân của một chế độ lao tù tàn bạo và nghiệt ngã.
Trong quy hoạch một đô thị văn minh, vỉa hè là khoảng công cộng dành cho người đi bộ. Còn theo kiến trúc, vỉa hè là đường diềm, trang trí cho phố phường tạo ra sự hài hòa giữa đường và nhà mặt phố. Người Pháp đã làm những điều đó ở Hà Nội từ cuối thế kỷ 19.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Hồi những năm 1950, làng Trúc Lâm quê tôi thuộc vùng du kích ven thành phố Huế.
QUẾ HƯƠNG
Ngày 15/7/2017 tới đây, ngôi trường hồng diễm lệ nằm cạnh trường Quốc Học, từng mang tên vị vua yểu mệnh Đồng Khánh chạm ngưỡng trăm năm.
THÁI KIM LAN
Trong những hình ảnh về ngày Tết mà tôi còn giữ được thời thơ ấu, thì Tết đối với tôi là Tết Bà, mà tôi gọi là Tết Mệ Nội chứ không phải Tết Mạ. Bởi vì mỗi khi Tết đến, cả đại gia đình chúng tôi đều kéo nhau lên nhà Từ đường “ăn Tết", có nghĩa quây quần chung quanh vị phu nhân trưởng tộc của dòng họ là bà nội tôi.
TRẦN VIẾT NGẠC
Báo Xuân xưa nay luôn là số báo đẹp nhất, phong phú nhất trong một năm. Bài vở số Xuân được tòa soạn đặt bài trước cho các cây bút thân quen, nổi tiếng từ mấy tháng trước.
NGUYÊN HƯƠNG
Trong đời, người ta ai cũng nên phải lòng một vùng đất. Cảm giác đó thật đặc biệt, giống như khi ta một mình đi đêm về sáng, bỗng gặp đóa hoa cô đơn thức sớm nở ngoài thềm, thấy thương.