nó cháy nó cháy sáng dịu dàng, nóng bức mà không khói thế là ý tưởng tan loãng ra không thấy tro tàn chỉ nghe sự bình yên cựa mình tróc vỏ như hạt ngô hạt đậu trong khu vườn tâm tưởng của vị thiền sư đạt ngộ! em có biết chăng khi tuổi tác đã chống gậy đứng trong đêm nhìn qua tháng năm sẽ thấy những dòng sông những con đường, và khá nhiều lối rẽ! những người mình thương những người mình ghét được và mất thành và bại vui và khổ… những cái mình cho đi và những điều mình cảm nhận sẽ là vô nghĩa nếu đọng thành ký ức đêm và hạt lửa xanh sẽ tôi luyện thành một thanh gươm trên tay chàng dũng sĩ thách đấu với hang thẳm Ràgu nơi tối tăm của cái ác và giun dế vẫn kêu đêm với ngôn ngữ của thời gian trong tương quan hiện tồn và sự sống! tôi chẳng có gì để lại cho em khi tôi phủi xác thân như phủi một hạt bụi rơi và nó sẽ còn dính lại ở đâu đó trong trang sách trang văn hay là nơi những câu thơ thiếu lửa sẽ là vô nghĩa nếu trái tim và cảm xúc được biến thành danh ngôn hoặc thành vầng trăng treo trên chiếc gậy đi đường có những ký hiệu đây là an toàn và kia là vực thẳm! em có biết chăng khi mắt đã mờ tai đã kém và trí đã cùn mòn chậm lụt thì nó, là hư vô cũng đứng trong đêm nghe giun dế tấu khúc thời gian và hạt lửa xanh trong trái tim may ra chỉ còn như hơi thở ấm hơi thở vương trên khóm lau già chỉ vài giọt sương đêm còn thức… tôi chẳng có gì để lại cho em khu rừng xanh này tháng ngày đi và đến tự do kia rất nhiều chim và lắm sương mù có con đường mòn sỏi đá vài người khách gió sương đã mỏi chỉ biết tâm sự với hoang vu không có ai mời trà chỉ có đêm với cô liêu giun dế thâu canh am cốc sơn môn đã ngủ! em có biết chăng lúc thân cây già tróc vỏ thì nó đã khô nhựa luyện không còn ngôn ngữ thì chẳng có nghĩa lý gì thời gian và lịch sử điện miếu đền đài vùi sâu trong bóng tối hư danh tôi cảm nghe mình như mỏm đá cỗi cằn mầm xanh không mọc được bộ rễ chắc khoẻ của tham vọng (tham vọng tâm linh hay quyền lực) chỉ thích hợp với những đám đất bãi biền giàu phù sa và khoáng chất… tôi, đôi khi, đi giữa khuya khoắt của nhân sinh đếm bóng mình, một thành hai hai thành bốn… rồi nó vỡ ra do trái tim đôi khi không an ổn nó lại muốn du ca hát lên và muốn gieo ươm những hạt lửa xanh hạt lửa đã đi suốt thiên thâu qua những quán trọ những chân cầu qua những điêu linh, sự chết vẫn mỉm cười hoạn nạn và khổ đau… tôi chẳng có gì để lại cho em kinh sách thì đã cũ chữ nghĩa và lý sự lại quá nhiều đã khô kiệt nguyên ngôn bút mực thế gian thì như biển như rừng còn văn chương thì đã quá nhiều người vươn tay để nắm nghệ thuật đôi khi lại là trò chơi vô bổ cũng như máy móc cứ mãi hiện đại tân trang mòn hơi chạy đuổi hư vô đến chóng mặt chỉ có ánh nắng buổi sáng và sương mù đêm thỉnh thoảng có trăng lại tỏ ra chung thuỷ… em biết không tôi sống chỉ mới hai phần đời người nhưng đã thấy già nua ngàn tuổi có điều rất nguy hiểm là không còn ngạc nhiên và chờ đợi nhưng có được cái hay hay là không còn náo nức những món quà kể cả tôn vinh và trân trọng kể cả đắc thiền đắc định sự sống chỉ lắng nghe từng ngày và từng hơi thở buồn vui chỉ thản như cát lọt kẽ tay… tôi chẳng có gì để lại cho em thế hệ trai trẻ hồn nhiên chỉ sống bằng mắt tai mũi lưỡi chẳng ai cần mái lá và cốc rêu chẳng ai cần sáng tạo và cô liêu sự an bình của non xanh lặng lẽ hãy xem, chim, sáng bay đi, tối tìm về rừng ngủ trời thì lúc nắng lúc mưa thời tiết bốn mùa thay nhau chuyển đổi đã cũ rồi câu chuyện ngàn năm! em biết không tôi bây giờ leo lét với mấy trang văn ngọn đèn, chung trà cùng với lư trầm tịch mịch ngồi tháng ngày kể chưa hết chuyện phù sinh đêm, dịu dàng với hạt lửa xanh những mong làm cho ấm lòng vách đá nghe lời kinh chuông sớm ngân nga rồi giun dế khuya du ca xem hư vô là người bạn cũ! MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH (nguồn: TCSH số 231 - 05 - 2008) |
vốc chút tàn tro trong lò gạch lạnhngọn lửa xa xăm bỏng rát giữa lòng tayngày bất chợt trổ ngọn gió âm uký âm điệu kèn Saranai trên tàn câygià hơn ngàn tuổi...
...sông vẫn xanh màu xanh thuở ấykhác là bây giờ bên sông nhà chọc trời soi bóngô tô đan kín đại lộ lấp loáng nắng trưahình như gió xưa đang háthoa bằng lăng tím lối qua cầu...
LƯU LYTên thật: Trần Thị Vân Dung, sinh ngày 28.8.1978 tại Thanh Chương, Nghệ An.Thơ Lưu Ly là sự giãi bày nỗi niềm của một tâm hồn đa cảm mà đơn phương... Sự chân thành mộc mạc của tác giả sẽ mang lại cho người đọc chút “hương đồng gió nội” thật hiếm hoi trong dòng thơ hiện đại.
...Có nơi nào như đất nước tôitiếng trống tràng thành cũng lung lay bóng nguyệtthiếu phụ tiễn chồng ra trậnđêm trở về nằm gối nửa vầng trăng...
Trà Mi vốn là bí danh có từ thời hoạt động nội thành của Nguyễn Xuân Hoa được anh “nối mạng” vào “thương hiệu” thơ khi cái đẹp bừng nở trong tuệ giác.Dù không lấy thơ làm cứu cánh nhưng nó vẫn là một hằng số tâm linh đối với bất cứ ai trong mỗi một chúng ta. Sự tung hứng giữa cảm xúc và trí tuệ, sự cộng hưởng giữa truyền thống và hiện đại, sự bức xạ giữa ý tưởng và ngôn ngữ được coi như một nguyên tắc đồng đẳng trong thi pháp thơ Nguyễn Xuân Hoa.Nguyễn Xuân Hoa sinh năm 1947 tại Quảng Điền, TTHuế. Hiện là tỉnh uỷ viên, giám đốc Sở Văn hoá Thông tin TTHuế.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chùm thơ mới của anh.
...Em đã lấy những gìmà Chúa không cần nữaNgười đã ban tặng emMột tình yêu đau khổ...
Cách đây 700 năm, vào năm 1306, vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Champa, bờ cõi Đại Việt được mở rộng. Hai châu Ô, Lý được vua Chế Mân cắt để làm sính lễ dâng vua Đại Việt. Sau đó, hai châu này được đổi thành châu Thuận và châu Hóa. Thuận Hóa được hình thành từ cơ sở đó.Những bài thơ chữ Hán viết về vùng đất này sớm nhất có thể kể đến như Hóa Châu tác (Làm ở Hóa Châu) vào khoảng năm 1354 của Trương Hán Siêu (?-1354); Hóa Thành thần chung (Chuông sớm ở Hóa Thành) của Nguyễn Phi Khanh (1355-1428); Tư Dung hải môn lữ thứ (Nghỉ chân ở cửa biển Tư Dung) của Lê Tư Thành (vua Lê Thánh Tông 1442 - 1497)... Nhân kỷ niệm 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế (1306 - 2006) TCSH trân trọng giới thiệu cùng độc giả ba bài thơ này.HẢI TRUNG giới thiệu
Đá Hạ Long đa tình hóm hỉnhNên mái cong đuôi trống xoè lôngTrời và nước hồng hoang kết dínhSóng nôn nao như tiếng vợ gọi chồng...
...đêm bình yên linh hồn nương náusao ta một mình thao thứcsao ta một mình lay gọilối nào tới ban mai?...
...khoảng vườn xanh xưatrồng toàn cây cẩm túnở một bông thôi cũng đủ nhớ thương người...
...từng hàng cỏ mọc bon chencôn trùng nương náu cũng quen lâu rồi...
LTS: Nguyễn Xuân Hoàng viết nhiều, viết đủ các thể loại nhưng tác phẩm đã công bố phần lớn là truyện ngắn, bút ký, tản văn, tiểu luận v.v... còn thơ thì ít khi xuất hiện. Song, có lẽ thơ mới là “ngọc châu” trong văn nghiệp của anh. Những bài thơ gần đây được Hoàng viết ra như một sự dự phóng điềm gở của định mệnh.Khắc khoải yêu thương, khắc khoải đợi chờ là tâm trạng của Hoàng được “mã hoá” trong chùm thơ mà Sông Hương vừa tìm thấy trong di cảo của anh.
...Xin hãy để ta mơ về Hợp NhấtLòng bản thể thẳm sâu hòa điệu giữa lòng ta...
LÊ HUỲNH LÂMSinh năm 1967, tại Phú Vang - Thừa Thiên Huế; Kỹ sư tin học (ĐH Bách Khoa Hà Nội). Tác phẩm đã in: Sông hoa (tùy bút)....ấy là một khuôn mặt trầm tư? U uất? Khuôn mặt với đầy đủ đặc tính của một “triết gia bi đát”. Bây giờ, những ngôn từ mà anh dày công nhào nặn đã ý thức hơn về vị thế của mình trong đoản - khúc - người, và chúng không còn cưỡng bức xác thân anh đi ngược chiều nhân loại nữa. Những ngôn từ (bị dòng đời ám ảnh) đã tự sắp đặt thơ. Bây giờ, thơ trở thành tính từ của thân phận mỗi khi cõi lòng anh lên tiếng...Sông Hương xin chuyển tới bạn đọc ba “cột thơ” rút từ ngôi nhà của anh.
...Không còn ở trong vòm cửa hẹpCả khoảng không bừng sáng quanh ta...
...Tiếng aiTrong gióHú dài…
LGT: Như một chuyến hành hương về nguồn cội, với nghĩa cử cao đẹp, Công ty Văn hoá Trí tuệ Việt đã cho ra đời tập sách HUYỀN THOẠI TRƯỜNG SƠN, gồm nhiều thể loại như bút ký, hồi ký, thơ, nhạc,... Đặc biệt hơn hết là danh sách đầy đủ, chính xác của 10.263 anh hùng liệt sĩ yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn.
Sông Hương xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc những dòng thơ được thắp lên từ HUYỀN THOẠI TRƯỜNG SƠN - như một nén nhang gọi hồn những người đã ngã xuống!
LGT: Trong cuộc đi tìm mình khắc khoải ở trời , Nguyên Quân mang theo những u uẩn của quá nửa phần đời để mỗi buồn ngồi gặm nhấm. Chắc hẳn cũng nhờ vậy, anh đã làm được một điều không dễ - ấy là gọi tên đúng nỗi buồn giữa mênh mang thi phú...Sông Hương xin giới thiệu chùm thơ của Nguyên Quân mà hai trong số đấy sẽ được tuyển vào 700 năm thơ Huế.
Hơn một năm trước, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ giương cao Lá cờ trắng. Nhưng dường như đấy chỉ là hình thức “trá hàng” của một nàng thơ giữa độ hồi xuân.Không hiểu tự bao giờ, loài cúc dại đã cắm rễ vào cõi hồn đa mang của chị hút đến cả nỗi đau dung dưỡng xác thân trong kiếp luân hồi đầy khổ nạn. Tập thơ mới nhất của chị, là sự bung nở của vô vàn cúc dại, để trí nhớ đất này thêm những phút thăng hoa...
HẠ NGUYÊN* Sinh năm 1966 tại Hương Cần - Hương Trà - TT. Huế* Hội viên Hội Nhà báo Việt , Ủy viên BCH Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế khóa IV (2007 - 2012).* Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế* Có nhiều tác phẩm in chung trong các tuyển tập: “20 truyện ngắn và ký 1975 - 1995”, “25 truyện ngắn và ký 1975 - 2000”, “Thời gian và nỗi nhớ”, “Trịnh Công Sơn - cát bụi lộng lẫy”, “Thừa Thiên Huế trong cơn đại hồng thủy (2000)” v.v.