Giới thiệu Chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế - Nhà thơ Mai Văn Hoan

14:16 20/11/2009
MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

Nhà thơ Mai Văn Hoan lúc mới vào nghề - Ảnh: maivanhoan.vnweblogs.com

Cho đến nay, Mai Văn Hoan đã xuất bản bảy tập thơ: Ảo ảnh (1988); Giai điệu thời gian (1989); Hồi âm (1991); Trăng mùa đông (1997); Giếng Tiên (2003); Lục bát thơ (2006); Điếu thuốc và que diêm (2009). Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng thơ Mai Văn Hoan “có lực đẩy của ngọn gió tàng hình, mở ra cánh cửa giấu kín bao bí mật của tình cảm. Ở đây, lồng lộng một khoảng trời mây cao; âm thầm một bình hoa độc sắc; và cũng có khi chỉ là một ảo ảnh không thể thiếu vắng trong đời…”. Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật nhận xét: “Mai Văn Hoan viết về tình yêu với mong muốn thức dậy sức sống trong con người, hướng con người đi đến cái cốt cách cao thượng, xóa dần những thói ích kỉ, tầm thường…”.

Anh là thạc sĩ, chuyên ngành Lý luận văn học. Những bài phê bình tiểu luận của anh đã được đăng tải trên các báo, tạp chí trong cả nước. Anh đã xuất bản: Cảm nhận thi ca (tập 1, 1991); Cảm nhận thơ Hàn Mặc Tử (1999); Cảm nhận thi ca (tập 2, 2008); Đôi nét chân dung hội viên Hội Nhà văn Việt Nam tại Huế (2009).

Châm ngôn của anh: Sống chân thật, giản dị. Viết giản dị, chân thật.
Mai Văn Hoan tâm niệm:
Cứ nói điều gan ruột
Hay, dở có thời gian
Mong sao đừng bỏ cuộc
Dù còn chút hơi tàn!
                SH giới thiệu


MAI VĂN HOAN


Vết khắc trên bia mộ


Chỉ vậy thôi mà tôi đã khắc tên
Lên bia mộ của một người bất tử
Thi nhân hỡi, xin thi nhân lượng thứ
Phút ngông cuồng của một gã tình si

Cái tên tôi nào có nghĩa lý gì!
Nó hoang dã như bông lau ngọn cỏ
Tôi đã thu tên mình cho thật nhỏ
Và giấu vào chỗ góc khuất mép bia

Chẳng ai thèm để ý vết khắc kia
Nó xấu hổ nép mình trong im lặng
Tôi cầu mong có một chiều đẹp nắng
Thẩn thơ buồn, người ấy lạc đến đây

Trời sẽ xui nàng thấy vết khắc này
Để nàng biết thế là tôi đã đến
Nhưng tránh gặp người mà tôi yêu mến
Bởi sợ nàng tan vỡ giấc mơ tiên.

Chỉ vậy thôi mà tôi đã khắc tên
Lên bia mộ của một người bất tử
Thi nhân hỡi, xin thi nhân lượng thứ
Phút ngông cuồng của một gã tình si


Trách  chàng  Kim


Thật thà chi bấy chàng Kim
Trong đêm tái hợp đi tin lời Kiều
Nghĩ mình lưu lạc đã nhiều
Buộc lòng nàng phải nói điều thiệt hơn
Sao chàng không thấu nguồn cơn?
Để cho nàng tự vùi chôn đời mình!
Gặp nhau biết mấy là tình
Nhói đau tim chị... lặng nhìn duyên em
Trách chàng khéo chọn lời khen
Xót xa thân phận, Kiều thêm não lòng
Bấy lâu nàng vẫn thầm mong
“ Nhị đào thà bẻ...” mà không gặp người
Quả cau nhỏ, miếng trầu hôi
Sao không thắm lại nụ cười Xuân Hương?
Đoạn trường càng nghĩ càng thương
“ Đã tu tu trót...” còn hơn thế này!
Thức cùng nhau trọn đêm nay
“Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”
Sao chàng đã vội tin lời
Sao chàng đã vội buông xuôi hỡi chàng?
Xưa dở dang, nay dở dang...
Tình yêu ai nỡ tráo sang bạn bè?

Tưởng là hạnh phúc... ai dè...
Trách chàng nông nổi đi nghe lời Kiều!


Có một dòng sông


Có một dòng sông thơ ấu
Nước xanh in bóng con đò
Hồn tôi vẫn thường neo đậu
Mỗi khi sóng lớn, gió to

Có một dòng sông rực nắng
Nước xanh in bóng cánh buồm
Cánh buồm ước mơ đỏ thắm
Đưa tôi xuống biển, lên nguồn...

Có một dòng sông mờ tím
Nước xanh in bóng mẹ nghèo
Ánh mắt dịu hiền của mẹ
Lặng nhìn những đứa con yêu

Có một dòng sông huyền ảo
Nước xanh in bóng trăng sao
Thả mình trên dòng sông ấy
Như bơi giữa dòng ca dao!


(249/11-09)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Thơ Xuân của Phạm Phú Thứ (1821-1882) viết về Huế, có nhiều vì ông ở cố đô trên hai mươi năm - già nửa cuộc đời làm quan của ông.

  • Lê Anh Hoài là một trong số những “ca” đặc biệt nhất của văn nghệ Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Anh sáng tác trên nhiều thể loại song không gây cảm giác “khó chịu”, bởi với anh, mỗi thể loại là một thể nghiệm, gắn với một kiểu ngôn ngữ riêng, chứ không phải để thể hiện ham hố đa tài.

  • Bích Khê, tên thật Lê Quang Lương sinh ngày 21 tháng 2 năm Bính Thìn, tức ngày 24 tháng 3 năm 1916 tại xã Phước Lộc, quận Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, nhập tịch và trú ngụ tại Thu Xà.

  • (Để nhớ ngày nhà thơ đi xa - 6/7/2023)

  • Mùa xuân luôn là đề tài hấp dẫn, sẵn sàng đánh thức nguồn cảm hứng của bao thế hệ thi nhân. Đây có thể xem là một thực tế trong lịch sử văn học Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi một nhà thơ đều có cách thể hiện theo cảm xúc của riêng mình.

  • NSND La Cẩm Vân mất năm 2014. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu NSND vào năm 2015. Dưới đây là những kỷ niệm của tác giả bài viết được NSND La Cẩm Vân chia sẻ lúc sinh thời.

  • Trước hết, xin có vài dòng “bên lề”. Dạo này, do tuổi sắp chạm “cửu tuần”, mắt thì kèm nhèm (một mắt “cống hiến” cho các con đường từ hơn 60 năm trước, mắt còn lại, thị lực chỉ 3/10), nên ít đọc sách báo. Nhưng với tác phẩm mới của Nguyễn Quang Lập, tôi “đọc thử” hai chương rồi thấy khó buông sách vì liên tiếp bị… bất ngờ.

  • Trong Hoàng tử bé, Saint - Exupéry từng bày tỏ sự chiêm nghiệm: người lớn đều từng là trẻ con nhưng không mấy ai nhớ được điều đó. Người lớn có những trải nghiệm cuộc đời nên dần mất đi sự hồn nhiên ngây thơ, mất đi trí tưởng tượng phong phú…

  • Trong sự nghiệp nghiên cứu văn học của PGS.TS. Võ Văn Nhơn, văn chương phương Nam giữ vị trí trung tâm và nổi bật.

  • “Mỗi khi sáng tác tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu hỏi, tôi sống trong chúng”1. Hành trình sáng tác của Han Kang là sự kết nối những câu hỏi và là “suy ngẫm về những câu hỏi”.

  • Hồ Minh Tâm sinh năm 1966 tại Quảng Bình. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Đà Nẵng năm 1990, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998; làm việc trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, tư vấn thiết kế, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.

  • Trong một bài viết mấy năm trước, tôi dẫn câu “số phận chứa một phần lịch sử” và tưởng rằng sự đúc kết rất đáng suy ngẫm này là của nhà văn - đạo diễn Đặng Nhật Minh. Hóa ra tôi đã nhầm.

  • Đặng Nguyệt Anh là một trong rất ít nhà thơ nữ được vinh dự sống và viết ở chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.

  • Trình làng một tập thơ vào thời điểm đương đại luôn tiềm chứa nhiều nguy cơ, và người viết hẳn nhiên phải luôn là một kẻ dấn thân dũng cảm. Nhiều năm qua, phải thú thực là tôi đọc không nhiều thơ, dù bản thân có làm thơ và nhiều người vẫn gọi tôi như một nhà thơ đích thực.

  • Chúng ta đ ề u đã bi ết Hàn Mặc Tử n ằ m ở nhà thương Qu y Hoà từ 21- 9 -1940 đ ế n 11 - 11 -1940 thì từ tr ầ n. Nhưng có một đi ề u dám chắc ai cũng băn khoăn là su ố t trong 51 ngày đ êm đó, thi sĩ có làm bài thơ nào không?

  • Công chúng yêu sân khấu cả nước ngưỡng mộ Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Bình với tư cách là một diễn viên tài năng, một đạo diễn gạo cội, một lãnh đạo ngành sân khấu năng nổ, nhưng ít ai biết anh còn là một tác giả sáng tác kịch bản văn học cho nhiều thể loại sân khấu, mà chủ yếu là kịch nói và ca kịch...

  • Kể từ khi ca khúc “Có một dòng sông” được công bố lần đầu tiên qua loa truyền thanh xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do chính tác giả cầm guitar thùng trình bày khi vừa viết xong, đến nay vừa tròn 40 năm, nhưng sức lay động của bài ca vẫn còn ngân vang mãi trong nhiều thế hệ người nghe được sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy, bất chấp dòng chảy thời gian.

  • Mẹ trong mỗi chúng ta là hình ảnh đầy thiêng liêng và diệu kỳ. Mẹ! Có nghĩa là duy nhất/ Một bầu trời/ Một mặt đất/ Một vầng trăng/ Mẹ không sống đủ trăm năm/ Nhưng đã cho con dư dả nụ cười tiếng hát (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên). 

  • (Đọc “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời” của Jean-Claude Grumberg, Nxb. Văn học 2023 - Dịch giả: Hoàng Anh).

  • Nhìn thấu mà không nói thấu là đỉnh cao cảnh giới xử thế trí tuệ. Nói theo thuật ngữ Phật học, cái trí nói chung có ba phần hợp thành là trí thức, trí tuệ và trí huệ.