LÊ KHAI
"Tuổi mười ba" tập thơ của Lê Thị Mây (Nhà xuất bản Thuận Hóa 1990) gợi người đọc nhận ra tính cách của nhà thơ.
Không phải ở thể thơ, vần điệu, ngôn từ mà ở bản chất tâm hồn, niềm cảm xúc cuộc đời và mối quan hệ tình cảm vốn có từ tuổi thơ, rõ nét từ tuổi mười ba. Nguồn cảm xúc ấy không những không bị lãng quên mà còn được hồn thơ nuôi dưỡng và bồi bổ cho nó lớn lên khỏe mạnh, yêu đời với bước phát triển tư duy trí tuệ đáng trân trọng. Hai câu thơ mà Lê Thị Mây ghi phía dưới ảnh mình ở bìa gấp đầu trang sách:
"Em mười ba tuổi giống ai?
Soi gương - mắt mẹ - gặp hai nụ cười"
là tình cảm vốn thông thường của rất nhiều con gái giống mẹ và rất yêu mẹ. Hẳn là từ đáy lòng cảm thương và biết ơn ấy Lê Thị Mây mở đầu cuộc đời thơ của mình? Còn với độc giả như tôi sau khi đọc xong tập thơ "Tuổi mười ba" tôi lại thấy rất giống và đúng lứa tuổi mười ba - Lứa tuổi mà về sinh lý được cha ông xưa ở đôi nơi hay nói: "Nữ thập tam, nam thập lục"(*). Có thể câu ấy mang nội dung bảo vệ cho một tập quán tảo hôn, nghĩa là gái 13, trai 16 tuổi có thể dựng vợ, gả chồng. Song điều chính tôi muốn nói là ở tuổi 13 ấy, người con gái đã có bước phát triển tình cảm ở chiều sâu yêu đời, cuộc sống, thiên nhiên và xã hội chung quanh mình. Cái tuổi biết đắn đo, e thẹn, hấp thụ và rung động với thế giới ngoại cảnh qua nội tâm kín đáo.
"Dẫu vườn non quả khế
Trái tim ngủ chưa yên
Mười ba tuổi biết nhiều
Nhưng mắt còn chưa nói!"
(Mẹ và con - Trang 6)
Ngay đến chuyện thích và nhớ đôi mắt đẹp của bạn gái cũng lắng đọng hồn nhiên:
"Đôi mắt đen thật đen
Thoáng buồn tôi đã hiểu
Vắng một tháng sao nguôi
Nhớ nhung sao kỳ diệu"
(Mắt bạn gái - Trang 16)
Đọc suốt tập thơ người đọc dễ thấy tình yêu mẹ, yêu bà tha thiết của nhà thơ gắn với vườn tược, cây rơm, giếng nước, đường làng, hoa cau trổ; đàn gà con chiêm chiếp quanh gà mẹ. Những cánh đồng đang vào vụ cấy, rét và nắng. Những mùa vàng có chim tu hú kêu. Tiếng gió, giọt mưa... đều in dấu tình người, chứa đựng sức sống lao động cần cù và mối quan hệ con người với nhau, với thiên nhiên trong một vùng quê êm đềm sôi động và giàu chất trữ tình.
Đành rằng đã là nhà văn, nhà thơ ai không gắn bó cuộc sống, dòng đời. Nhưng điều tôi muốn nói về tính cách Lê Thị Mây là sự đồng cảm con người từ mẹ mình, bà mình, từ tuổi thiếu thời nơi thôn dã. Đâu dễ gì Lê Thị Mây gieo được những câu thơ:
"Bông lúa nói với vàng tươi
Mô hôi mẹ đẫm, áo trời lên xanh
Tiếng thức khuya, mặt trăng thanh
Lo âu mẹ dấu để giành sau lưng".
Hoặc:
"Mẹ làm cỏ ruộng sấm ra
Để rơi bông gạo tháng ba đỏ đường
Tóc mẹ gội, thả lời hương
Để con chăm luống một vườn sả thơm!"
(Tiếng một ngày của mẹ - Trang 10)
Chính từ sự đồng cảm sâu sắc với nỗi gian lao, đức tính cần cù giản dị, lòng nhân ái của bà mẹ mình mà Lê Thị Mây nối nhịp đồng cảm với người lao động xung quanh, làm nảy sinh sức sáng tạo của thơ chan hòa nắng, gió, tiếng chim, cây cỏ và tình người, khơi dậy nhiều chất thẩm mĩ. Sự đồng cảm mật thiết ấy có từ thuở nhỏ và hình thành rõ nét từ tuổi mười ba đã cùng Lê Thị Mây theo thời gian lớn dậy. Nhiều bài trong tập thơ này nói rõ điều ấy.
Cái thức, Cái ngủ, Tôi quét, Gánh nước, Gió, Đôi bạn, Cây rơm, Tiếng chim tu hú, Mái vàng... là những bài thơ thực dễ thương, sinh động, giàu chất sáng tạo từ thực tiễn.
"Cây rơm dấu một vầng trăng
Yêu con gà mẹ ủ nằm vào lông
Cánh vàng đưa võng bồng bông"
(Mái vàng - trang 44)
Ai đã từng hiểu cảnh giáp hạt tháng tám, tháng ba, thấm câu ngạn ngữ dân gian "lúa chín vàng, người vàng con mắt" mới thấu hiểu niềm vui từ trái tim người dân quê khi nghe tiếng chim tu hú gọi mùa:
"Tiếng tu hú đồng làng
Lúa ngậm vào từng hạt
Cơm mẹ đơm đầy bát
Em nâng tràn tiếng chim"
(Tiếng chim tu hú- trang 39)
Không có sự am hiểu nông thôn tinh tế, với hồn thơ nhạy cảm người bưng bát cơm ngày mùa khó có nổi hình tượng "Em nâng tràn tiếng chim". Câu thơ thanh thoát, giản dị mà toát chiều sâu thấm đậm lòng người, cứ như còn âm vang sau khi đọc. Chắc rằng những bà con nông dân, những người từng yêu và am hiểu nông thôn đọc các bài thơ trên đều phấn chấn, càng yêu thêm quê càng tỏ niềm thông cảm mến yêu Lê Thị Mây. Đấy cũng là một trong những tiêu chuẩn của giá trị nghệ thuật.
Mong cho một hồn thơ lớn lên từ "tuổi mười ba" sống động sức trẻ trung. Tôi nghĩ vậy bởi nhà thơ đang nói, đang nhớ như in và vẫn đang hình dung, so sánh về lứa tuổi mười ba khá sắc sảo:
"Phải cầu đang thuở mười ba
Chắc là đỏng đảnh như là tuổi tôi".
(Yêu cầu- Trang 21)
Yêu chiếc cầu Tràng Tiền khi Lê Thị Mây vào Huế. Hồi đó là năm 1976 cô Mây cũng đã gấp đôi tuổi mười ba, nhưng cho đến bây giờ cô vẫn nhớ tuổi mười ba của mình để so nó với cầu thì thực thú vị. Có điều hai chữ "đỏng đảnh" mà nhà thơ vận dụng như còn sơ xuất. Bởi qua tập thơ tôi cảm thấy ở tuổi mười ba của Lê Thị Mây tính chất "nhí nhảnh" hồn nhiên rõ hơn là "đỏng đảnh". Nếu chỉ nói riêng dáng cầu đỏng đảnh thì hay đấy!
Còn một điều nữa là đọc thơ Lê Thị Mây đăng đó đây cũng như ở tập này bất giác tôi lại gặp nét cầu kỳ. Dù ý thơ hay nhưng cái cầu kỳ bỗng như chặn ngang cảm hứng:
"Nếu em đặt một chân
Lên nửa hạt cát bỏng"
(Cát - Trang 49)
Cát nửa hạt này tôi hiểu thâm ý của nhà thơ. Nhưng tôi lại cho rằng cứ đặt chân lên hạt cát cũng đủ rồi, cũng thâm ý rồi, sao lại phải đặt chân lên nửa hạt cát cho nó sinh cầu kỳ. Chất sáng tạo của thơ ca có thể cao xa, phong phú, đa dạng mới lạ. Sức tưởng tượng của những tâm hồn thơ thường cao hơn thực tiễn song có nên thoát ly thực tiễn một cách trực diện vậy không? Cái nửa hạt cát này vấp vào tình trạng ấy. Âu cũng là sự trao đổi với nhà thơ về thiển ý của tôi. Ngoài sự băn khoăn ấy, điều khái quát trong tôi về tập thơ "Tuổi mười ba" là tập thơ hay, có bước nâng cao rõ về chất lượng. Số bài hay khá đồng đều hơn các tập thơ trước. Phải chăng khi tập trung trí tuệ hướng về cơ sở bản chất hồn nhiên vốn sẵn từ đầu thơ Lê Thị Mây đã tránh được những ảnh hưởng pha tạp nên càng rõ tính cách hơn. Đấy chẳng phải là lời bình của tôi mà ở tập "Tuổi mười ba" đang xác nhận điều ấy:
"Cứ như sông vô tình
Bắt nguồn từ lời mẹ
Theo sông ra tới bể
Em hiểu mặn lời ru...".
L.K.
(TCSH44/01-1991)
--------------
(*) Con gái tuổi 13, trai 16 là tuổi thành niên.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Kể từ lúc thị xã Huế được nâng lên cấp thành phố, cho đến khi người Nhật làm cuộc đảo chính hất chân người Pháp khỏi đông Dương vào ngày 9/3/1945 thì Huế vẫn là thành phố cấp 3, nhưng là thành phố của trung tâm chính trị, văn hóa, nơi đóng kinh đô cuối cùng của nhà nước quân chủ Việt Nam.
HỒ VĨNH
Thi hữu Quốc Hoa Nguyễn Cửu Phương là một thành viên trong hội thơ Hương Bình thi xã do Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm hội chủ. Năm 1933 thi đàn đặt tên là Vỹ Hương thi xã, qua năm 1950 các thi hữu bắt đầu đổi tên Vỹ Hương thi xã thành Hương Bình thi xã.
Mùa xuân chiếm một ví trí quan trọng trong thơ Nguyễn Trãi. Xuân hiện lên bằng nhiều vẻ dáng khác nhau, được khắc họa bằng nhiều cung bậc khác nhau. Mỗi một bài thơ xuân như là một trang nhật kí và cảm xúc của cuộc đời thi nhân.
Đọc sách Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý (ảnh, NXB Khoa học xã hội, Sách Khai tâm, quý 1/2015) của Hoàng Xuân Hãn là cách để “gặp lại” danh tướng Lý Thường Kiệt.
CAO HUY THUẦN
Từ trong mênh mông, một sợi mưa rơi vào lá sen. Nước vốn không có hình. Nằm trong lá, nước tròn như một viên ngọc, tròn như một hạt lệ, tròn như một thủy chung. Gió thoảng qua, lá sen lay động, nước rơi không để lại một dấu vết, rơi như chưa bao giờ có, rơi như một hững hờ.
NGUYÊN QUÂN
Những lúc bứt thoát được những hệ lụy cuộc sống, tôi chỉ thích được lang thang lên mạng, mong bắt gặp một câu thơ, một dòng văn nào đó gần gũi với tâm trạng để ru dỗ mình bằng những phút giây đồng điệu.
Trong các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Tế Hanh có dáng vẻ của một thi sĩ hơn cả, không phải chỉ bởi “đôi mắt nồng nàn lạ” (Hoài Thanh-Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam) mà còn là, hay chính là, bởi vẻ buồn ngơ ngác của ông, không phải chỉ trên vẻ mặt mà cả trong cách hành xử, ứng đối của ông với mọi người, mọi sự.
DA VÀNG
(Đọc tập thơ Tùng Gai của Bạch Diệp, Nhà xuất bản Văn Học, 8/2014)
NGUYỄN VĂN NHẬT THÀNH
Đồng hành cùng cuộc chuyển mình lớn lao của đất nước, văn học Việt Nam sau 1975 chứng kiến cuộc vật lộn âm thầm nhưng quyết liệt của bao văn nghệ sĩ trên hành trình tìm kiếm “sinh lộ” mới cho văn chương Việt.
Kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 -2014), NXB Quân đội Nhân dân vừa ấn hành cuốn sách Về cội nguồn Quân đội Nhân dân Việt Nam.
YẾN THANH
“Nếu nói một cách đơn giản rằng Đông phương luận hiện đại là một khía cạnh của cả chủ nghĩa đế quốc lẫn chủ nghĩa thực dân thì sẽ ít ai có thể tranh cãi được. Tuy nhiên, nói như thế chưa đủ. Cần phải trình bày nó một cách có phân tích, có tính lịch sử”. [Edward Wadie Said, Đông phương luận, Nxb. Tri thức, 2014, tr.200]
NGUYỄN KHẮC VIỆN
Với một Gavroche, Victor Hugo đã viết nên những trang bất hủ. Trẻ em của chúng ta đã anh dũng, hồn nhiên tham gia cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ của cha anh, dẫu chỉ một vài cá nhân; thế mà sách vở về mặt này còn quá ít. Nhà văn Việt Nam còn mắc nợ các em rất nhiều.
"Hạnh phúc tại tâm" là cuốn sách mới nhất của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa được dịch ra tiếng Việt. Sách chỉ ra hạnh phúc nằm trong bản thân mỗi con người, ở từng thời điểm chúng ta sống.
LÊ MINH PHONG
Chúng ta không rũ bỏ được Thượng Đế
Vì chúng ta vẫn tin vào ngữ pháp
(Nietzsche)
DƯƠNG PHƯỚC THU
Chiều ngày 12/5/2014, tôi nhận được món quà vô cùng quý giá, đó là cuốn sách Hải Triều Toàn Tập do chính gia đình của Nhà văn hóa, Nhà báo Hải Triều gửi tặng.
Nhà văn Trang Thế Hy đã bước vào tuổi 90. Một đời viết kéo dài suốt 70 năm, ông không viết nhiều nhưng hễ công bố tác phẩm là làng văn phải “giật mình”
Xin nói ngay rằng, đọc tập truyện Giọt nước mắt màu đất của Đức Ban (NXB Hội Nhà văn 2014), với tôi Chốn xưa là một truyện ngắn hay.
PHẠM XUÂN DŨNG
Trong số các nhà thơ, nhà văn quê hương Quảng Trị, Vĩnh Mai không phải là một tên tuổi lớn như Chế Lan Viên hoặc Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhưng ông vẫn là một tác giả đáng ghi nhận, một nhân cách đáng kính, một người trí thức đầy lòng tự trọng, một người yêu nước chân chính.
THẢO LINH
Đà Lạt thành phố của ngàn hoa với những con đường trập trùng quanh phố núi với ảo diệu sương mù. Đà Lạt với cảnh sắc hữu tình và thơ mộng đã đi vào thi ca, nhạc họa từ bao đời nay và còn tiếp tục làm say lòng bao người đến kẻ đi.