Để có được kết quả của ngày hôm nay tất cả chúng tôi bồi hồi nhớ lại khi thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ. Tháng 1 năm 1992 Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định thành lập đội 192 làm nhiệm vụ tìm kiếm, khảo sát, cất bốc quy tập mộ liệt sỹ ở những vùng sâu, vùng xa xôi hẻo lánh về các nghĩa trang. Thể hiện đạo lý: "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc ta. 25 năm trôi qua, lịch sử dân tộc bước tiếp qua nhiều trang mới trước những lo toan của cuộc sống đời thường, thì những người lính của đội 192 bộ chỉ huy quân sự tỉnh hối hả chuẩn bị lực lượng, hành trang cơm đùm, gạo bới, thức ăn khô để vượt suối băng rừng đi tìm đồng đội. Những chiến sỹ tuổi đời mới 18 đôi mươi tiếp bước cha anh viết tiếp trang truyền thống của mình, những trang viết thật tươi thắm cũng không kém phần hào hùng, oanh liệt, họ vinh dự được nhận nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó. Năm tháng sẽ qua đi nhưng những kỷ niệm của một thời đi tìm đồng đội của cán bộ chiến sỹ đội 192 khắc khoải đợi chờ thực thi nhiệm vụ. Lịch sử đã sang trang, cả nước đang tưng bừng đi lên trong sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh" Nhưng người lính chúng tôi nào tăng, võng, bi đông, cuốc xẻng, súng đạn, gạo, muối, nhang đèn... Lại hành quân vào trận mới để tìm đến với đồng đội của mình ở các địa danh trong nước như đường 12, đường 14b, Caleng, Hồng Thủy, Hồng Vân, Aroàng, Ađớt, Asấu, A lưới hay ở trên đất bạn như Tùm lan, Va pi, Na khôn phông, Xa-ra van, Không-xê đôn, Tù muồi, Tà ổi... Bước chân của các anh trài dài khắp 8 huyện, 232 bản làng và các điểm cao, vùng sâu, vùng giáp ranh trên đất bạn Lào với một lòng nặng nghĩa để tìm được hài cốt đồng đội. Nắng - cái nắng những ngày cuối cùng của mùa khô trên đất bạn thật dữ dội, dải đồi cỏ tranh, hay cánh rừng già bạt ngàn vẫn oằn mình trong nắng mặc cho những đợt gió lào quất vào mặt, làm rát thịt da, song cán bộ chiến sỹ đội 192 vẫn chạy đua với thời gian, phát, cốt, đào bới tìm kiếm hài cốt. Có những lúc đơn vị đang hành quân ở rừng sâu để tìm kiếm, khảo sát bị mưa rừng xối xả nước suối dâng cao, không qua được tất cả anh em nhịn đói chờ lũ rút mới về, hoặc cất bốc gặp những hài cốt đang còn tươi nguyên, mùi hôi bốc lên nồng nặc nhưng các anh vẫn tận tụy, chịu khó cắt từng lớp thịt, nhặt từng mẩu xương, cẩn thận đưa vào túi tử sỹ gói chặt đem về lán dùng cồn rửa sạch, sau đó sắp vào tiểu đưa về mai táng tại các nghĩa trang. Đồng chí trung tá Phạm Văn Túc đội trưởng cho biết: Khi được giao nhiệm vụ cấp ủy, chỉ huy đơn vị xác định và làm tốt công tác chính trị tư tưởng cho cán bộ chiến sỹ, phân công trách nhiệm cho từng tổ, từng mũi đảm nhiệm, xây dựng nội bộ đoàn kết thống nhất cao về ý chí và hành động, phát huy vai trò trách nhiệm của đội ngũ đảng viên do vậy đơn vị luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhiều đ/c đã tích cực tự giác rèn luyện chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước. Đặc biệt là đã làm tốt công tác dân vận với nhân dân các bộ tộc Lào nên luôn được nhân dân tin yêu, mến phục. Tiêu biểu như các đ/c Trần Trung Thành, Khắc Ngọc Hải, Nguyễn Văn Chính và nhiều đ/c khác. Là người chiến sỹ nói chung cán bộ chiến sỹ đội 192 nói riêng luôn hiểu rằng Bà mẹ - Đất nước - còn nghèo nên Đứa - con - Lính không tránh khỏi muôn phần vất vả, hôm nay người lính 192 vẫn SSCĐ, dù bữa ăn còn đạm bạc" Nước chấm đại dương và bát canh toàn quốc" dù có phải thiếu rau nhạt muối, mặc cho cơn sốt rét rừng khốc liệt làm cho làm môi tím tái, nhưng họ vẫn một lòng quyết tâm làm trọn vẹn nghĩa tình với biết bao đồng đội. Từ ngày thành lập đến nay cán bộ chiến sỹ đội 192 đã cất bốc đưa vào nghĩa trang 1774 mộ liệt sỹ. Trong đó có 572 mộ quân tình nguyện và chuyên gia ở Lào về nước. Ngoài nhiệm vụ chính trị được giao cán bộ chiến sỹ đội quy tập đã làm tốt công tác vận động quần chúng tranh thủ ngày nghỉ đội đã giúp dân làm giếng, làm đập chắn nước, lợp nhà giúp dân trên 1000 ngày công, huy động 700 công giúp dân gặt 3 ha lúa, vận chuyển 10 tấn gạo, thóc lợp 5 ngôi nhà thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu keo sơn Việt - Lào thủy chung như nước Hồng hà - Cửu long. Đồng chí: Nguyễn Văn Chính chiến sỹ đội 192 cho biết Là một chiến sỹ của đội quy tập mộ liệt sỹ chúng em nhận thức được sự hy sinh của biết bao thế hệ cha anh vì nghĩa vụ quốc tế cao cả và sự mất mát đau thương của bao gia đình, của những người mẹ, người vợ, người chị và họ đã ra đi mãi mãi không về. Do đó chúng em quyết tâm khảo sát, tìm kiếm cho được nhiều mộ để phần nào đền đáp công ơn của các anh hùng liệt sỹ, họ đã không tiếc máu xương, tuổi thanh xuân cho đất nước thanh bình hôm nay. Không riêng gì em mà tập thể của đội đều chung ý nghĩ như vậy. Những ngày tháng đội quy tập sống trên đất bạn đi đến đâu anh em quy tập mộ liệt sỹ đều được bà con dân bản đón tiếp ân tình, tìm đường chỉ dẫn để tìm ra từng ngôi mộ trên tổng số 572 mộ đội quy tập làm được đều do đồng bào dân bản chăm sóc hương khói giữ gìn cẩn thận. Nhiều cán bộ nhân dân các bộ tộc Lào đã xúc động nói: Những năm đánh Mỹ ác liệt đã đi qua hơn 1/4 thế kỷ, bộ đội Việt Nam đã có 2,3 thế hệ kế tục nhau làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Lào, nên việc tìm kiếm quy tụ mộ liệt sỹ về nước gặp rất nhiều khó khăn. Song các anh đều được nhân dân các bộ tộc Lào thương yêu đùm bọc coi họ như con em của chúng tôi. Năm tháng sẽ trôi qua nhưng tình cảm, tình người vẫn tồn tại và không có gì thay đổi. Trong mùa khô 1999 - 2000 được sự phối hợp của các ngành, các cấp, của các bộ tộc Lào đã tạo điều kiện cho việc tìm kiếm quy tập các liệt sỹ quân tình nguyện chiến đấu hy sinh ở đất bạn Lào về các nghĩa trang. Hôm nay được sự giúp đỡ của các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân trọng thể đón nhận 70 hài cốt liệt sỹ về nước. Trong khói hương nghi ngút của buổi lễ truy điệu theo phong tục Lào và lễ tiễn đưa các anh về với quê hương, đất nước. Cầu chúc cho linh hồn các anh mãi yên giấc ngàn thu trong lòng đất mẹ. Tháng 5/2000 H.T (142/12-00) |
LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.
MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.
VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.
DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.
NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )
TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.
ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.
PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư hoàn cảnh”.
ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.
DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...
TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!
LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.