Maurice Druon, sinh năm 1918, theo học Đại học Luật Paris. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông tham gia lực lượng kháng chiến Pháp chống phát xít Đức, là thông tin viên Đài Phát thanh Kháng Chiến. Giải Goncourt 1948 với tác phẩm "Đại Gia đình" (Les Grandes Familles). Các tác phẩm đậm chất trữ tình của nhà văn: "Kết thúc đời người" (La Fin des Hommes), "Hẹn gặp tại Địa ngục" (Rendez-vous aux enfers) phản ánh một thiên hướng theo trường phái Balzac.
Ông đồng thời là tác giả một số tiểu thuyết lịch sử.
Nhà văn Pháp Maurice Druon - Ảnh: culture.gouv.fr
MAURICE DRUON
Người dân đảo Martinique giờ đây thường không quen gọi "ngày 8/5", hoặc "vào năm 1902", giờ với họ, từ "thứ Năm" trở nên quá đổi quen thuộc, "thứ Năm", như thể không còn một ngày nào khác được quyền mang tên ấy.
Tôi đến đảo Saint-Pierre đúng ba mươi sáu năm sau ngày thứ Năm, năm xảy ra tấn thảm kịch với người dân đảo. Kinh đô trước đây của Antilles, thị trấn nhỏ giờ mang đầy vết tích tang tóc, tàn lụi. Trước đây, Saint-Pierre có khoảng vài chục ngàn dân, người dân dựng từng dãy nhà buôn, nhà thờ, rạp hát, công viên... từng lớp lớp nhà xếp thành từng dãy tựa vào triền núi. Thành phố vốn sầm uất trước đây, sau ngày thứ Năm ấy, giờ một nửa đã biến trong dòng nham thạch của ngày ấy, phần còn lại, giờ đây cỏ hoang đã vùi lấp gần hết. Thật khó nhọc, tôi mới nhác thấy vài ba căn nhà được dựng lại. Người dân dựng lại nhà từ những viên đá còn mang đầy vết sém của lửa. Ngôi nhà mới mặc nhiên còn mang đầy dấu vết của sự tàn lụi. Dường như quanh quẩn, lẩn lấp trong bầu trời và không khí đảo là một màu xám đục, cát biển, đập gỗ ngăn nước giờ đều mang màu xám. Bầu trời đầy mây cũng phảng phất một mảng sắc của nham thạch. Thị trấn giờ không còn một bóng cây, một vòi nước bằng đồng, di chỉ của một thời huy hoàng quá khứ, giờ nằm chơ vơ với hai bể nước giờ đã cạn khô. Mấy đứa trẻ trần truồng, da đen nhẻm, chạy chơi quanh quẩn. Những người đàn bà lai, hẳn đã rất già, bâng quơ tranh cãi trước một giỏ cá biển.
Người đàn bà da trắng là người tôi tiếp chuyện trong chuyến đi thăm đảo. Khuôn mặt dịu dàng, đôi mắt long lanh nước, tất cả toát lên một biểu trưng cho lớp người Âu còn sót lại ở đây. Bà đội một chiếc mũ trắng, mái tóc màu bạc thả từng sợi, một dây chuyền vàng viền quanh cổ. Người tựa vào chiếc gậy mây.
Cung cách cùng lối nói chuyện của bà như sẵn sàng đáp lại ánh mắt hiếu kỳ của đám khách lạ, cái thú được chuyện trò kể lể.
"Hôm ấy là thứ Năm... Gia đình tôi rời đảo Saint-Pierre. Hôm trước, ngọn núi đã từng có triệu chứng phun lửa, và cả thành phố hôm sau đều sống trong tâm trạng lo âu. Mẹ tôi cố nài cha tôi lên đồn điền, thường phải đến cuối mùa ông mới đến. Việc này khiến tôi thất vọng, vì hôm ấy đúng vào dịp sinh nhật thứ hai mươi của tôi, thêm nữa, tôi đã đính hôn. Buổi khiêu vũ đành phải dời lại.
Để tôi nguôi ngoai phần nào, Simon, vị hôn phu của tôi, sẽ cùng đi với ông đến đồn điền.
Ở đây, có một người anh họ tôi làm việc, tên Pierre. Một chàng trai, theo tôi, là cục tính và đa nghi. Anh ấy trước đây có ngỏ lời, nhưng bị tôi từ chối. Tôi đã thuộc về Simon và, hẳn ông đã biết, ở tuổi hai mươi, người ta thường không phải lo lắng gì khi làm khổ người khác, thậm chí xem đấy là điều vui. Với tôi, Simon là tất cả...
Sau bữa tối, Claire, chị tôi, ra đánh đàn dương cầm, Pierre đi loanh quanh trong nhà, nét mặt luôn rầu rĩ. Tôi nói với Pierre, giọng chọc ghẹo:
- Pierre, tại sao anh không cưới chị Claire? Chị ấy chỉ mong được điều ấy thôi.
Rồi tôi cùng Simon đi dạo quanh trong vườn. Thời đó, chúng tôi có một khu vườn rất đẹp, một lối đi lớn quanh vườn và hai bên trồng đầy cây cọ. Pierre thấy rõ chúng tôi ôm nhau...
Người đàn bà lặng im một thoáng, người tựa vào chiếc gậy mây. "Sáng hôm sau, bà nói tiếp, tôi dậy thật sớm kịp lúc chào Simon. Pierre đánh xe ngựa cùng đi. Tôi thấy xe khuất dần trong vườn. Suýt tí nữa tôi đã kêu lên: "Simon, hãy quay lại, đừng đi!". Không khí hôm ấy ngột ngạt không như ngày thường. Mấy con chó chạy quẩn quanh, ánh mắt đầy vẻ thảng thốt. Từng đàn chim lũ lượt bay trốn núi.
Cả nhà tôi xuống làng để nghe cầu kinh Misa. Đến nơi, chúng tôi thấy từng nhiều đám đông tụ lại và hét lớn:
- Saint-Pierre bị cháy. Cơn mưa lửa. Biển động.
"Cha tôi muốn xuống đấy, nhưng mẹ tôi đã ngất đi do quá sợ hãi. Cả nhà xúm lại quanh bà.
"Đến giữa trưa, Pierre quay lại. Xe ngựa không có, quần áo hắn rách bươm. Da mặt đỏ ong, tay đầy vết xước. Hắn bước đi loạng choạng. Tôi hét to:
- Pierre, Simon đâu?
Chưa vội trả lời, chỉ ra dấu về hướng thung lũng. Pierre mới kể:
"Ngay lúc khởi hành, con ngựa đã ra dấu uể oải. Pierre phải quất roi nó mới chịu chạy. Xe đến sát thành phố, không khí đã đầy mùi lưu huỳnh ngột ngạt. Từng đám mây lửa cháy bùng lên như vỏ bào. Chiếc xe chạy trước cháy bùng lên thành bó đuốc lớn. Một đám mây lửa thiêu cháy mọi vật. Con ngựa phát rồ, xe bị lật úp. Pierre bị hất xuống đường, hắn thấy rõ đám mây lửa đi qua, trong khi Simon đáng thương áo quần bị vướng vào xe, bị kẹt lại và cuối cùng biến mất trong lò lửa ấy. Mọi việc chỉ diễn ra trong chừng ba mươi giây. Sáng hôm sau, người ta nhặt được những gì còn lại của anh ấy, rơi vung vãi hai bên đường.
Người đàn bà bỗng nhiên nói nhanh hơn, như muốn sớm kết thúc câu chuyện.
"Sau đấy, tôi ngã bệnh. Nhưng ở tuổi hai mươi, mấy ai lại chết vì buồn phiền. Gia đình tôi sa sút. Tôi căm thù Pierre, người anh họ. "Tại sao không phải là hắn? Tại sao hắn không chết?". Dẫu sao, hai năm sau, tôi cưới Pierre.
"Cuộc sống của tôi từ đấy là cuộc sống của bao người đàn bà da trắng ở đây: nhà cửa, con cái. Chúng tôi có chín đứa con. Ông biết đấy, có nhiều chuyện người ta không muốn kể cho những người họ cùng sống, ở đấy, mọi người đều biết nhau quá rõ. Dù sao thì, lắm khi, họ lại có nhu cầu được nói, được kể, được chuyện trò... Chồng tôi đã chết, cách đây vài năm. Trong lễ rửa tội, chồng tôi đã nói thật hết mọi điều. Và vào ngày thứ Năm ấy, hắn đã nói dối. Sự ghen ghét đến độ hóa cuồng đã khiến hắn chỉ nghĩ đến việc giết Simon. Chính hắn đã quất roi vào ngựa, đã một mình nhảy ra khỏi xe và để mặc Simon trong xe lao vào đám mây lửa.
"Những người sắp chết, chắc ông không biết, khi tạ lỗi thường có một vẻ khiếp nhược nào đấy, còn mình lúc ấy thì chẳng thể khước từ...
Bà ta lặng im. Khuôn mặt quay về hướng núi, những nếp nhăn trên mặt càng dày thêm.
Hoàng hôn màu xám đục hối hả đến với đảo Saint-Pierre. Bầu trời xám, mặt biển cùng xám nốt.
Không nói câu tạm biệt, cũng không có thời gian để tôi kịp hỏi tên, bà bỏ đi. Những bước chân rắn rỏi, chiếc gậy mây nện từng tiếng xuống đường.
Tôi đến một quán rượu. Ông chủ quán đang ngồi trước quầy, hai chân buông thõng. Mái tóc xoăn, điểm màu bạc, ánh mắt ông thật buồn, thường vẫn thấy ở những người lai, khi về già.
- Tôi muốn biết tên người đàn bà vừa mới nói chuyện, thưa ông!
- À... Cô Harbelot, ông già đáp.
- Cô?... Tôi thốt lên, rất ngạc nhiên.
- Vâng, cô Harbelot des Planchais.
- Nhưng còn tên của người chồng?
Ông già lắc đầu:
- Ồ không, có cưới lần nào đâu.
- Bà nói với tôi bà có chín đứa con.
- Không, không. Không có đứa nào hết. Cô ấy chỉ nói chuyện như thế, thế thôi. Ông anh họ chăm sóc cô, nhưng không thể ngăn cô ra đường, luôn luôn thế. Cô ấy bị điên. Điều này xảy ra với cô Herbelot, dường như vào thứ Năm.
Phạm Anh Tú dịch
(TCSH50/07&8-1992)
ALICE MUNRO
LGT: Alice Munro sinh ngày 10 tháng bảy năm 1931 ở Wingham, Ontario, Canada, với tên khai sinh là Alice Ann Laidlaw. Cha của bà là chủ nông trại, mẹ là cô giáo.
LGT: Romain Gary tên thật là Romain Kacew, sinh năm 1914 tại Moskva và được nuôi dưỡng bởi một người mẹ đã đặt rất nhiều kỳ vọng nơi con trai mình. Năm 14 tuổi, ông theo mẹ đến Pháp và định cư tại Nice.
IURI BONDAREP
Lần đầu tiên, chúng tôi nhìn thấy cô ta ở cạnh bàn bóng bàn ở sân hành lang nhà an dưỡng. Cô mặc chiếc áo len dài tay màu xanh, chiếc váy thật thẳng nếp, mái tóc màu sáng được cắt ngắn, và cứ mỗi lần vụt rơkét cô lại hất mạnh những sợi tóc vương khỏi trán. Những lúc như vậy, đôi mắt nâu đen của cô lại mỉm cười.
O.HENRY
Rất lâu trước khi bụng dạ lờ đờ của anh nhà quê cảm nhận được hơi xuân thì tay thị dân ấy đã biết rằng bà chúa xanh màu cỏ ấy đã lên ngôi.
LTS: Trong 24 bài trong tập Cỏ dại của nhà văn Lỗ Tấn do GS. Trần Đình Sử dịch, Sông Hương số tháng 10 năm 2011 đã giới thiệu đến bạn đọc 3 bài “Sau khi chết”, “Sự giã từ của cái bóng” và “Sự run rẩy trên đường đồi bại”. Kỳ này Sông Hương xin giới thiệu tiếp với bạn đọc 4 bài chọn lọc từ Cỏ dại.
VILIAM KHÂYNÊXEN (Đan Mạch)
Khi Lêô tỉnh giấc, trong tai anh vẫn còn vang lên những lời của ông giáo sĩ giảng đạo.
LGT: Nhà văn, nhà nghiên cứu sử học và văn hóa Mỹ Jon Holmes sinh ra tại tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng công nghệ Texas nơi ông từng tham gia phong trào nhân quyền và phản chiến, Jon Holmes chuyển đến New York làm việc cho một tạp chí nhiếp ảnh và phụ trách một chương trình sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ hiện đại cho một đại công ty ở Bos- ton.
KNUT HAMSUN (*)
Do tôi viết. Viết vào ngày hôm nay cho trái tim vơi nhẹ đi. Tôi đã mất chỗ làm ở tiệm cà phê cùng những ngày sung sướng của tôi. Tất thảy mọi thứ, tôi đã mất hết. Và tiệm cà phê ấy là tiệm cà phê Mắcximilăng.
HENRY JAMES
(Tiếp theo Sông Hương số 290 tháng 4/2013)
Một buổi sáng (tôi cho là ở gần La Spezia) Harold đang vẽ bên gốc cây, không xa quán trọ, tôi ngồi cạnh, lớn tiếng đọc Shelley(18) - người có thể chứng tỏ được trìu mến hơn bất cứ ai.
ELENA PUCILLO TRUONG
Nỗi khắc khoải đã kéo dài từ bao lâu?
Có lẽ một năm. Quá nhiều. Lấy cớ đi vào toilette, hai tay tôi nắm chặt chiếc bồn rửa mặt trong nhà hàng như muốn bẻ làm đôi. Bao nhiêu bức bối đang dồn vào trong... bao nhiêu đau đớn... đau đến nỗi tôi không dám ngẩng mặt nhìn bóng mình trong gương.
Henry James (1843 - 1916), nhà văn Mỹ viết tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học; đặc biệt yêu văn học và nghệ thuật Pháp. Ông định cư ở Londres, Anh từ 1876. Tác phẩm: 112 truyện ngắn (1864 - 1910), Toàn tập (1990 - 2009), nội dung thể hiện ở nhiều chủ đề như: ý thức, tâm lý, mơ mộng, tình cảm, vẻ đẹp, chân lý nghệ thuật.
FRANÇOIS CHENG
(Trích từ tác phẩm Khi những linh hồn lang thang trở về)
Dưới gầm trời này, dưới cái gầm trời rất thấp này, tất cả đều có thăng có trầm, tất cả đều bị biến đổi. Tác phẩm về Những đột biến đã chỉ rõ điều đó, tổ tiên chúng ta đã nói: “Cứ năm năm thì có chuyển biến nhỏ, cứ năm trăm năm thì có đại đột biến”.
L.T.S: Sherwood Anderson (1876 - 1941) là nhà văn lớn của Mỹ. Ông có nhiều tư tưởng tiến bộ, và thường tỏ thiện cảm với những lực lượng vô sản cách mạng Mỹ, đặc biệt là trong những năm 1931 - 1935. Truyện ngắn "Những ngọn đèn chưa thắp" (Unlighted Lamps) của ông dưới đây được liệt vào một trong những chuyện ngắn xuất sắc trong nền văn học Mỹ từ trước đến nay. Câu chuyện về bi kịch nội tâm của những con người không phá vỡ nổi bức tường ngăn cách giữa những tình thân và cho đến khi nhắm mắt vẫn chưa kịp thắp lên ngọn lửa thông cảm.
Elena Pucillo Truong là người Ý, Tiến sĩ Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài (Đại học Milano Italia). Cô dạy tiếng Pháp và Văn minh Pháp tại Milano từ năm 1982 và gần đây có dạy tiếng Ý tại Nhạc Viện, tại phòng lãnh sự danh dự Ý và tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP HCM.
LGT: Etgar Keret sinh ngày 20/8/1967 tại Ramat Gan, Israel. Nhà văn nổi tiếng với truyện ngắn và kịch bản phim, có ảnh hưởng lớn tới lớp nhà văn trẻ hiện nay ở Israel.
L.T.S: Narayan là nhà văn miền Nam Ấn Độ, sáng tác bằng tiếng Anh. Sinh 10/10 năm 1906 tại làng Madras (mất 13/5/2001), từng sống ở thành phố Mysore cổ kính của quê hương ông.
Ferit Edgu sinh năm 1936, từng sống sáu năm ở Paris học chuyên ngành gốm. Trong nhiều năm ông là người viết kịch bản quảng cáo và rồi điều hành một nhà xuất bản. Sự vô lý của cuộc đời, những ám ảnh dục tính, sự sa đọa và sự bất hòa của người trí thức là những chủ đề của ông.
HEINRICH BÖLL (CHLB Đức)
(Heinrich Böll sinh 1917, mất 7-85 - giải thưởng Nôbel văn học 1972)
Ngoài các tác phẩm lớn về Việt Nam như Vạn Xuân, Lãn Ông, mấy năm gần đây, nữ văn sĩ Pháp Yveline Feray đã cho ra đời những tập truyện thần thoại và dân gian của các nước châu Á như Việt Nam, Trung Hoa, Campuchia, Tây Tạng. Vào cuối năm 2010, bà đã cho xuất bản tập “Chuyện kể của bà ngoại Ấn Độ”.
AKUTAHAVA RIUNÔXKÊ (Nhật Bản)
Hôm ấy một mình Đức Phật đi dạo ven bờ đầm trên Niết bàn.
Cả đầm toàn là sen trắng trong như ngọc, và nhị sen vàng tỏa ra xung quanh một mùi thơm ngọt, ngạt ngào.