HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
Gánh cơm hến Huế - Ảnh: Internet
Bọn tôi tha thẩn khắp khung trời mộng mơ đất thần kinh để ăn cho sướng cái miệng sau nhiều năm nhịn thèm vì vạn dặm theo chàng. Cũng phải thôi, thời đi học lang thang khắp hang cùng ngõ hẽm Huế, ăn chè Chùa, bắp nấu Cồn Hến, bánh khoái Lạc Thiện, bánh bèo goẹo Giằng Xay, bún bò Mụ Rớt…Bây chừ chỉ thèm hai món: cơm hến và bánh canh Nam Phổ Huế chính hiệu.
Cơm hến hình như nơi đâu cũng có. Cách chế biến đơn giản vùng miền nào cũng làm được. Nguyên liệu thật dễ tìm: rau sống - gồm rau chuối cây xắt vụn, rau thơm, bạc hà xắt thật nhỏ, búp chuối non…trộn đều bỏ vào đáy tô, rồi múc hai vá cơm, bỏ một muỗng dầu đã phi hành, ruốc, mè, tóp mỡ rang dòn, ba muỗng hến luộc, ớt giã nhỏ, rồi chan nước hến. Ăn cơm hến phải thật cay và cho nhiều ruốc mới ngon. Ngó dễ vậy nhưng chỉ ở Huế, con hến mới thơm thịt và ngọt nước. Nhất là rau thơm Huế trộn lẫn vào rau sống tạo nên mùi vị thơm ngon, hấp dẫn, các vùng khác không có loại rau thơm này nên tô cơm hến kém ngon!
Hồi còn con gái, đi học về, bọn tôi ăn cơm hến ven đường, phải ăn rón rén, dè chừng kẻo mang tiếng ăn tham. Chừ thì tuổi tác hơi dày nên khỏi sợ! Bọn tôi ăn cho khỏi thèm. Mỗi đứa “quất” luôn ba tô. Ớt cay xé miệng, hít hà, hít hà…ăn tiếp. Con gái bạn tôi nhìn hai bà mạ ăn mà khiếp. Tôi hiểu ý cháu, cười dòn:
- Cay lắm hả cháu? Lâu lâu mới có dịp gặp bạn bè, ăn mới vui!
Vừa ăn chuyện trò rôm rả. Chuyện xưa, thật xưa…tưởng chừng quên hết ai dè trở lại trong trí nhớ y như mới hôm qua. Tôi hỏi cô bạn gái phương xa:
- Nì, hôm nớ tui để gói bánh lọc trong hộc bàn mà ai lấy mất?
Cô bạn lém lỉnh:
- Miền chơ ai. Cho đi tìm mỏi mắt!
Tôi thụi cô bạn già một cái đau điếng:
- Đồ tham ăn, rứa mà không chịu nói để ta lục tung ra mà tìm!
Cười vang…
Một thoáng nhớ chiều lang thang qua hoàng thành nghe hương phượng thơm ngát và có ai đó trộm nhìn rồi cười khúc khích…
Hôm sau, bọn tôi đi thăm cô bạn gái Vỹ Dạ học từ hồi ở trường Đồng Khánh lên tới đại học. Sau một hồi thăm hỏi, cô bạn đãi đi ăn bánh canh Nam Phổ. Tôi đắn đo, vì còn nhiều công chuyện sợ trễ giờ, nhưng cô bạn thì ừ cái rụp vì “Tui đói bụng rồi mà nhớ bánh canh Nam Phổ quá. Ngon ơi là ngon!” Nghe bạn khen ngợi, rồi hít hà y như đang xì xụp húp bánh làm tôi nhỏ nước miếng! Chẳng biết sao ngoài danh tiếng vang lừng vì tài đổ bột bánh ngon hạng nhứt Huế, cách nấu bánh khéo, Nam Phổ còn được mọi người biết đến với câu ca:
“ Con gái Nam Phổ ở lỗ trèo cau!”
Chi mà lạ kì rứa! Tôi lẩm bẩm.
Nam Phổ có những hàng cau đẹp cho quả rất sây, cơm dày, chắc, nhai miếng cau “như nhai miếng chả”- đó là lời mệ ngoại tôi bình luận. Hồi nhỏ tôi nghe mạ ru em bài cao dao:
“Ru con con théc cho muồi
Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh…”
Đó, ai lại chẳng khen cau Nam Phổ cơ chứ! Còn con gái răng mà ở lỗ?
Có lần tôi hỏi mệ:
- Không lẽ mấy o gái Nam Phổ không mặc quần mà trèo cau hở mệ?
Mệ tôi nạt:
- Nói tầm bậy không ha! Có mặc quần chơ nhưng là quần cụt hoặc là quần dài mà hai ống vo tròn lên quá gối, cho dễ trèo, khỏi vướng, hai chân có hai cái nài, cho khỏi té và trèo nhanh thoăn thoắt. Trai làng khác trông xa xa, thấy mấy o gái trên cây cao chỉ bày hai ống chân nên chòng ghẹo, nói như rứa đó con à!
Trưa hôm đó, cả bọn trực chỉ tiệm bánh canh Nam Phổ - gần Chợ Cống, ăn no bụng. Hết bánh bèo, bánh lọc, bánh nậm và cuối cùng là tô bánh canh thơm ngát. Sợi bánh canh Nam Phổ làm từ bột gạo, mềm, nhưng chắc và hơi dai. Nước bánh canh nấu từ cua, thịt nạc, có những miếng chả cua rất thơm ngon. Tô bánh canh trắng hồng hồng, trên mặt là thịt nạc băm, chả cua có màu đỏ, hấp dẫn lắm. Rắc rau răm, ngò, tiêu…Nước mắm cay, đậm đà. Ui chao, ngon, cay ghê! Xuýt xoa vì lâu ngày mới được ăn nên chưa quen độ cay xé miệng…Mặt mày ửng hồng do hai hàm răng “lao động”quá nhiệt tình. Bà chủ quán xung phong chụp cho mấy kiếu hình làm kỉ niệm. Vui quá! Nhìn một đống lá và mấy cái tô trống không cả bọn cười lớn:
- Ngày xưa mà ăn kiểu ni chắc không ai dám rước, lủng nhà!
Lại cười…hí hửng!
***
Chiều hôm đó, tôi và cô bạn rời Huế lòng vẫn nhớ bữa bánh canh hôm nọ. Thiệt ngon mà đậm đà tình bạn, tình cố hương.
Biết bao giờ mới có ngày họp mặt đông vui như vậy để cùng nhau đi ăn cơm hến, bánh canh Nam Phổ…mà nghe hương thời gian thơm ngát nước sông Hương!
Huế, 8.1.2011
H.T.N.H-T
Vùng quê nghèo chúng tôi nằm sát chân núi Hồng Lĩnh có Hàm Anh (nay là xóm 1 xã Tân Lộc) từng sản sinh ra một Tiến sĩ xuất thân Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) (1499) đời Lê Hiến tông tên là Phan Đình Tá (1468-?)
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.