Nhà thơ Văn Lợi - Hải Bằng ký họa
I Anh sinh ra nơi phố nhỏ khiêm nhường Bên chân sóng của sông liền với biển Anh hiểu rõ những cánh buồm thoáng hiện Thoáng mất đi trong bát ngát trùng khơi Năm tháng qua đi anh thêm hiểu cuộc đời Hiểu về em như hiểu về biển cả Nên có lúc biết mình say sóng lạ Anh tìm về với phố biển quê hương. II Có một thời của tuổi ấu thơ Anh từng say mê xây nhà bên biển Những tòa lâu đài nguy nga thoắt hiện Lại thoắt tan đi trong sóng xõa vô tình Anh lớn lên với bao nỗi thăng trầm Đã có thể bình tâm trước những gì chợt đến Và bỗng gặp em ngỡ như là gặp biển Ngỡ gặp lại mình của tuổi ấu thơ. III Ngày mai đây phố biển của anh Sẽ mọc lên với mười lần khác trước Sẽ có những công viên một thời anh mơ ước Vẫn nguyên vẹn trong anh một Đồng Hới thuở nào Một Đồng Hới của bọn trẻ chúng anh chơi trốn tìm nhau Mỗi góc phố, mỗi hẽm đường đã thấm vào máu thịt Một Đồng Hới của hoa hồng thanh khiết Như thanh khiết tình em thơm suốt cuộc đời anh. 6-1984 Ngọn lửa Anh không là ngọn lửa Phút chốc cháy bùng lên Em ơi ngọn lửa ấy Sẽ tắt vào lãng quên Anh chỉ là ngọn lửa Trong bếp nhà vậy thôi Giữa đời thường lặng lẽ Cháy hết mình không nguôi Như là niềm tin ấy Cháy sáng lên thay lời! 7-1984 Cầu cáp quê tôi Những sợi dây căng dọc lòng đường Soi mặt nước thành từng ô sống Những âm thanh, những âm thanh ùa lên sôi động Khi mặt đường như ngựa chiến vào đêm Đó là nơi chiếc cầu bom dội xuống triền miên Giữa hai mố cầu chỉ còn là khoảng nước Cầu dựng mấy lần, mấy lần bom bật ngược Mảnh gỗ, mảnh gang găm nát đôi bờ Đường nhói đau mỗi bước xa chờ Những sợi dây nối qua khoảng cách Một chiếc cầu chưa từng có trong sử sách Hiện lên như một cung đàn Những âm thanh rạo rực không gian Những đoàn xe lao về phía trước Điều kỳ diệu giặc Mỹ đâu hiểu được Đêm đêm khoảng trống ấy không còn Đêm đêm vang vọng tiếng rì rầm Nơi ban ngày trơ vơ khoảng trống Nơi ban ngày nước chia thành ô sóng Và hai mố cầu chỉ hằn những tao dây Đó là chiếc cầu đã mọc ở nơi đây Cầu lát ván trên hàng hàng dây cáp Cầu đánh Mỹ sớm chiều tháo ráp Những cô gái bám đường thoăn thoắt bàn tay Tôi bồi hồi đứng ở nơi đây Nghe Đồng Hới vào mùa xây dựng Một chiếc cầu sẽ mọc lên sừng sững Một chiếc cầu như chính quê ta Đã đứng lên trên đổ nát đi xa… Cầu Bốn, tháng 11-1973 (10/12-84) |
Trên bầu trời, một vì sao đỏ chóiRót ánh sáng vào tháng ngày hấp hốiMáu sao rơiGiọt lịm lưng thềmCây nến tim tôi bùng cháy...
Nguyễn Sĩ Cứ - Võ Thị Hồng Tơ - Hoàng Cầm - Đào Duy Anh - Hoàng Ly Thạch Thảo - Võ Văn Luyến - Phạm Duy Tân
Tên khai sinh: Vương Oanh NhiSinh năm 1947 tại Hải Phòng.Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam .Học viên khoá IV Trường viết văn Nguyễn DuTác phẩm chính: + Lối nhỏ (1988) + Bài mẫu giáo sáng thế(1993)
CHÂU NHONăm 1968 tại mặt trận biên giới Việt - Lào, trung đội chúng tôi sau 3 ngày quần nhau với địch, 3 đồng chí hy sinh và trung đội trưởng bị thương nặng. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, đêm đó trung đội trưởng đã “nói chuyện với người yêu” trong cơn mê sảng. Xúc động trước tình cảm đó, tôi đã chuyển lời của người liệt sĩ thành bài thơ gửi về cho người yêu của anh ở hậu phương là cô Lê Thị Ánh, giáo viên cấp I ở một bản thuộc huyện Quế Phong, Nghệ An.
Hà Duyên - Nguyễn Thụy Kha - Nguyễn Thanh Văn - Nguyễn Văn Quang - Phạm Xuân Dũng - Lê Tuấn Lộc - Hồng Thị Vinh
Phạm Tấn Hầu - Lê Ngã Lễ - Lương Ngọc An - Lê Bá Thự - Phạm Thị Anh Nga - Đoàn Mạnh Phương - Trịnh Văn - Nhất Lâm - Hoàng Lê Ân.
NGUYỄN VĂN DINHCâu thơ BácThuở chăn đơn Bác đắp trong hangỐc suối, cơm ngô, nõn chuối ngànThơ Người vẫn viết cho ta đọc"Cuộc đời cách mạng thật là sang".
Nguyễn Trọng Tạo - Diệp Minh Luyện - Nguyễn Việt Tư - Lê Viết Xuân - Trần Lan Vinh - Mai Văn Phấn
Trương Đăng Dung - Văn Công Hùng - Nguyễn Thụy Kha - Văn Công Toàn - Vĩnh Nguyên - Phan Tường Hy
Vũ Thị Huyền - Công Nam - Nguyễn Cảnh Tuấn - Đặng Hiển - Trần Đôn - Nguyễn Văn Hùng - Nguyễn Thị Thái
LTS: Binh đoàn Hương Giang thành lập ngày 17.4.1974, mang tên dòng sông thơ mộng. Sau khi giải phóng Huế, Binh đoàn tham gia chiến dịch thống nhất Tổ quốc, tiến thẳng vào Dinh Độc Lập ngày 30.4.1975. Sống lại những ngày tháng oai hùng đó, Nguyễn Trọng Bính, một sỹ quan của Binh đoàn đã viết trường ca “Nhật ký dòng sông” năm 2008. Tác phẩm này vừa được Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam xếp loại xuất sắc trong đợt sơ kết Cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết, trường ca về đề tài Chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân 2006 - 2008. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu cùng bạn đọc một trong số 11 chương của trường ca này.
CAO XUÂN THÁISinh năm: 1948 - Tại Vương quốc Thái LanVề nước năm 1960Quê quán: Hoa Lư - Ninh BìnhHội viên Hội Nhà văn Việt NamPhó Chủ tịch Hội VHNT Hà Giang - Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Hà Giang.
Nguyễn Đông Nhật - Chử Văn Long - Lê Hoàng Anh - Trịnh Lữ - Đào Trung Việt - Nguyễn Trần Thái - Nguyễn Thị Anh Đào - Nguyễn Loan - Nguyễn Văn Quang
Hải Trung - Văn Cầm Hải - Ngô Tự Lập - Nguyễn Tấn On - Phan Trung Thành - Trần Thị Thu Huề
Lê Ngọc Thuận - Từ Dạ Thảo - Đặng Hùng Thường - Tuệ Lam - Hoàng Thị Thiều Anh - Trần Tịnh Yên - Nguyễn Hoa - Nguyễn Thị Tân Hoa - Đỗ Văn Khoái - Nguyễn Thụy Kha
Hữu Thỉnh - Lưu Ly - Đặng Nguyệt Anh - Sơn Thu - Trịnh Thanh Sơn - Nguyễn Xuân Sang - Văn Công Toàn - Nguyễn Ngọc Hưng - Nguyễn Thị Ngọc Hà - Nguyễn Thiền Nghi - Nguyễn Mẫn Cán - Lê Ngã Lễ - Mai Văn Hoan - Xuân Tùng - Lê Thị Mây - Lê Viết Xuân - Ngô Minh - Quang Huy - Thái Doãn Long - Hà Minh Đức - Sơn Đức - Tôn Nữ Thu Thuỷ - Lê Khánh Mai - Bùi Minh Quốc - Ngô Đức Tiến - Trương Quân - Trương Nam Hương - Đoàn Mạnh Phương - Nguyễn Sĩ Cứ - Thuý Nga - Lê Huy Quang - Hồ Thế Hà - Phạm Đình Ân - Trần Tâm - Hoàng Xuân Thảo
Thục Linh - Ngân Vịnh - Nguyễn Ngọc Phú - Hoàng Bình Trọng - Tôn Phong
Sâu tưởngtrong sâu tưởng...ta có phải là mìnhhay tái bản cuộc đời nào đómà bằng lặng một đêm chưa thểphiên bản bốn mùa trong gió cơ man...
Thong thả cho quả chín câyCho mây ngũ sắc về đây hội mùa…
...Ngoài kia mưaThầm thĩ hát trên cây lan hồ điệpLoài hoa nở hai bông một lầnTôi khóc...