NGUYỄN HUY KHUYẾN
Năm 1960, theo dự thảo của ông Bộ trưởng bộ Quốc gia Giáo dục cho biết Đà Lạt được tổ chức thành một thành phố du lịch, thì nên lập tại đây một Viện Bảo Tàng để thêm phần hấp dẫn du khách ngoại quốc. Với khí hậu khô ráo quanh năm của Đà Lạt, thì nơi này có thể bảo quản được nhiều tài liệu quý hiếm của triều Nguyễn được đưa từ Huế lên.
Chi nhánh Nha Văn khố Đà Lạt (sau là thư viện Đà Lạt)
Những tài liệu cổ thư, những sách Hán Nôm, lịch sử, văn hóa, sách ngự lãm hiện nay đang còn ở nước ta đang lưu trữ bảo quản tại các Viện Nghiên cứu, các Trung tâm Lưu trữ, các Thư viện một phần cũng được chuyển từ Chi nhánh Nha Văn Khố Đà Lạt. Tuy chỉ tồn tại một thời gian, song ý nghĩa của Chi nhánh Nha Văn Khố Đà Lạt nơi bảo quản khối tài liệu quan trọng của triều Nguyễn những năm 1960, thật sự chưa được nhiều người biết đến.
Đà Lạt được đánh giá là một địa điểm quan trọng để xây dựng một quốc khố, một viện bảo tàng, một chi nhánh Văn khố Quốc gia, bởi thiên nhiên ưu đãi về khí hậu, địa hình. Các nhà lưu trữ, các nhà nghiên cứu có tâm huyết với khối tài liệu của triều Nguyễn ở Huế không khỏi xót xa khi nhìn thấy những tài liệu quý giá của hoàng Triều cứ ngày một mất đi bởi chiến tranh, thiên nhiên lụt lội đe dọa. Chính vì vậy, các phương án di dời toàn bộ khối tài liệu quan trọng quý giá này lên Đà Lạt là hợp lý.
Năm 1960, trước tình hình chiến sự căng thẳng và để tránh những sự xung đột có thể xảy ra gần vĩ tuyến 17, khối tài liệu lịch sử của triều Nguyễn đã được chế độ miền Nam (cũ) di chuyển lên Đà Lạt bảo quản, với ý đồ là thành lập một Quốc khố tại Đà Lạt thuộc quyền kiểm soát của Viện Khảo cổ. Lúc đầu Viện bảo tàng Đà Lạt được xem là một quốc khố để giữ gìn chu đáo các cổ thư và sử liệu quý giá của triều Nguyễn. Việc tổ chức tại Đà Lạt một Quốc khố để gìn giữ những cổ vật quý giá đồng thời với những cổ thư là một công việc hữu ích và hợp lý, có tính cấp thiết, nên làm ngay. Theo đó, cần quan tâm và sẵn sàng cho sử dụng Văn phòng tòa đại biểu chính phủ (hiện nay là nơi làm việc của UBND tỉnh Lâm Đồng), đây là trung tâm nên các khách bốn phương sẽ chăm chú tìm đến thăm viếng.
Việc di chuyển những cổ vật và các tài liệu lịch sử quý giá từ Huế lên Đà Lạt đã được khảo sát và chuẩn bị rất chu đáo, toàn bộ công việc này được tiến hành bí mật và mau lẹ.
Theo tài liệu, hồ sơ lưu trữ số 1055 thuộc phông Nha Văn khố Quốc gia đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II- Tp. Hồ Chí Minh. Hồ sơ này có đến gần 300 trang cả viết tay và đánh máy nêu rõ quá trình di chuyển và kiểm kê số tài liệu được vận chuyển từ Huế vào Đà Lạt năm 1960. Việc di dời tài liệu quý hiếm này cực kì có ý nghĩa bởi Đà Lạt lại là nơi được lựa chọn để bảo quản và trưng bày cho nhân dân và khách nước ngoài thăm quan. Khối tài liệu quý hiếm được vận chuyển bằng xe lửa đầu kéo răng cưa, được mượn ở ga Tháp Chàm.
Qua nhiều lần đệ trình kế hoạch vận chuyển khối tài liệu lớn cổ thư, sách ngự lãm, mộc bản, châu bản của triều Nguyễn vào Đà Lạt. Đoàn công cán ra Huế khảo sát bao gồm các ông Phạm Như Phiên nguyên là Đại biểu tại Cao nguyên Trung Phần, ông Nguyễn Gia Phương phó giám đốc Nha Văn khố và Thư viện Quốc gia, ông Lê Phục Thiện nhân viên về Hán tự tại Viện Khảo Cổ. Phái đoàn được cử đi Huế từ ngày 7/4/1960 đến 11/4/1960, để nghiên cứu thể thức di chuyển khối tài liệu lên Đà Lạt.
Sau khi những chuyến tàu đầu tiên cập ga Đà Lạt khối tài liệu này được chuyển về nhiều nơi, trong đó có địa chỉ số 3 Trần Hưng Đạo, Chi nhánh Nha Văn Khố Đà Lạt, sau này một phần những tài liệu này được chuyển xuống Sài Gòn, còn hơn 30.000 tấm mộc bản được chuyển về nhà thờ Dòng Chúa cứu thế, cuối cùng được chuyển vào bảo quản tại biệt điện Trần Lệ Xuân trụ sở của Trung Tâm lưu trữ Quốc gia IV, số 02 Yết Kiêu, P5 Đà Lạt.
Chi nhánh Nha Văn Khố Đà Lạt bây giờ là địa chỉ 24 Trần Hưng Đạo, tuy không còn là nơi lưu trữ bảo quản tài liệu nữa, nhưng nơi đây một thời đã là nơi quan trọng của quốc gia, nơi bảo quản nhiều tài liệu quý giá mà đến ngày nay nhiều tài liệu đã phục vụ đắc lực cho giới nghiên cứu.
Có nhiều nhà nghiên cứu đánh giá rằng, nếu như lúc đó Đà Lạt không phải là nơi bảo quản tài liệu của triều Nguyễn thì có lẽ sẽ không còn nhiều tư liệu đến thế, hoặc giả khối tài liệu mộc bản cũng sẽ bị mất mát thất lạc di thiên tai và chiến tranh, thì đến bay giờ chắc cũng không còn một di sản tư liệu thế giới, một tài liệu quý ở Việt Nam và hiếm trên thế giới. Công lao đó một phần không nhỏ thuộc về những nhân viên bảo quản tại Chi nhánh Văn Khố Đà Lạt đã bảo quản gìn giữ những báu vật của quốc gia một thời. Thành phố Đà Lạt lại thêm ý nghĩa khi đã góp phần gìn giữ hàng vạn tấm mộc bản, hàng triệu quyển sách quý và nhiều tư liệu quý báu của quốc gia và thế giới.
N.H.K
(SĐB9-12)
PHAN THANH HẢI
Bình phong là một công trình không thể tách rời với các kiến trúc truyền thống ở Huế. Dù xuất hiện ở nhiều nơi như phủ đệ, am miếu, đình làng, nhà ở… nhưng bình phong trong kiến trúc cung đình vẫn đặc sắc, cầu kỳ hơn hẳn.
MAI KHẮC ỨNG
Trong khung cảnh một công viên rất mơ và rất thơ bởi những bàn tay của những con người Việt Nam đầu thế kỷ XIX làm nên hồ, suối, núi, đồi, hoa, trái, lầu, tạ, đình, quán... Và, trong một khoảng không gian có giới hạn được tạo nhập rất tự nhiên vào cõi vô cùng, lăng của hoàng đế Minh Mạng quả là một khoảng trời thơ.
NGUYỄN PHƯỚC QUÝ KHANH
Musée Khải Định (nay là Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế) được thành lập vào năm 1923 dưới thời vua Khải Định với nhiệm vụ “tập hợp các tác phẩm nghệ thuật biểu hiện đời sống xã hội, nghi lễ và chính trị của nước Đại Nam”1.
NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Chữ di sản ở đây xin đọc với nghĩa rộng, bao gồm di sản vật thể, phi vật thể, thiên nhiên, tôn giáo tín ngưỡng… Di sản luôn hiện lên với vẻ ngoài dễ xác định, cho dù có bị hư hoại đi nhiều qua thời gian.
PHAN THANH HẢI
THƠM QUANG - NGUYỄN DUYÊN
NGUYỄN THẾ
Bút ký dự thi
Trước năm 1975, tôi học ở Trường Quốc Học Huế. Khi chuyển từ lớp đệ tứ (đệ nhất cấp) lên lớp đệ tam (đệ nhị cấp), tôi đăng ký vào học ban C (phân ban văn chương và ngoại ngữ).
PHẠM XUÂN PHỤNG
Bút ký dự thi
Huyện Phú Vang có tên chính thức từ sau năm 1558, thời điểm Chúa Tiên - Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm Thuận Hóa.
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
Sống giao thời giữa hai thế kỷ, từ sáng tác thơ ca bằng chữ Hán chuyển sang chữ Quốc ngữ, thi ca của Á Nam Trần Tuấn Khải thuộc một hệ hình thẩm mỹ đặc biệt, có phần “lưu luyến” với trường thẩm mỹ cổ điển, lại có phần bắt nhịp với hơi thở của những không gian thẩm mỹ mới.
VĨNH PHÚC
Hát Ả đào, còn gọi là Ca trù, dùng để chỉ một lối hát cổ truyền của người Việt. Theo các thư tịch thì khái niệm hát Ả đào sớm nhất so với các khái niệm ca trù, nhà trò, cô đầu,...
LÊ VĂN THUYÊN
Trường Quốc Học Huế (QH Huế) là một trong những trường trung học ra đời sớm nhất ở Việt Nam, chỉ sau Collège Chasseloup-Laubat thành lập năm 1877 (nay là trường trung học Lê Quý Đôn, TP HCM) và Collège de My Tho thành lập năm 1879 (nay là trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, TP Mỹ Tho).
TRẦN VĂN DŨNG
Trong dòng chảy lịch sử, Ca Huế đã tiếp thu, kế thừa và ảnh hưởng nhiều sắc thái, tinh hoa của nhiều vùng miền để trở thành một loại hình âm nhạc truyền thống độc đáo của Việt Nam.
VŨ HÙNG
Hiện nay, tại nhà thờ tộc Chế làng Vân Thê, xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế, lưu giữ một thanh đá dài khoảng 1,2 m, khá vuông, mỗi cạnh khoảng trên 20 cm, trong đó có một cạnh khắc kín chữ còn khá rõ nét.
THƠM QUANG
Xưa kia các vị hoàng đế thường chỉ sống trong kinh thành, thỉnh thoảng mới đi tuần thú địa phương, còn việc công du thăm nước ngoài là chuyện hiếm. Vậy mà cuối triều Nguyễn vua Khải Định đã thực hiện được điều này; sự kiện được ghi chép một cách khá rõ trong khối Mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới.