NGÔ MINH
Sau gần một năm chuẩn bị, sưu tầm tài liệu, lo “chạy” kinh phí, đến giữa tháng 6-2012, Hải Kỳ tuyển tập(*) đã ra mắt độc giả. Tuyển tập dày 596 trang do nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo vẽ bìa rất bắt mắt.
Ảnh: nhathonguyentrongtao.wordpress.com
Hai chữ HẢI KỲ cứ láy đi láy lại như điệp khúc, như tiếng vọng giữa cuộc đời. Hải Kỳ là nhà thơ có tên tuổi trong làng thơ Việt Nam, được công chúng yêu thơ cả nước mến mộ. Anh là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1994, là nhà thơ có nhiều duyên nợ với Huế cả về đời tư và trong thơ. Bố Hải Kỳ là ông Trần Toàn, làm nghề lái xe đò tuyến Huế - Đồng Hới. Lấy vợ và sinh ra Hải Kỳ ở Huế năm 1949. Đến 5 tuổi ông đưa mẹ con Hải Kỳ ra thăm quê nội, một thời gian giới tuyến Hiền Lương bị đóng, thế là ông xa mẹ con Hải Kỳ từ đó. Chờ hai năm Nam Bắc không sum họp như quy định trong Hiệp định Genève, mấy năm sau ông lấy vợ khác ở Sịa, huyện Quảng Điền.
Hải Kỳ lớn lên học ở Đồng Hới. Do chiến tranh, mẹ cho sơ tán lên quê nội Lệ Thủy, học cấp 3 Lệ Thủy 1965-1968 cùng lớp với Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty, Nguyễn Minh Hoàng... Được hai thầy giáo dạy văn giỏi là Lương Duy Cán (nhà thơ Hà Nhật) và Phan Ngọc Thu trực tiếp giảng dạy. Năm 1968, tốt nghiệp cấp 3 ở nơi sơ tán Ngư Hóa, Tuyên Hóa, miền Tây Quảng Bình. Do lý lịch “bố đi Nam”, không được thi đại học, Hải Kỳ phải theo khóa học sư phạm cấp tốc hai tháng. Học xong hai tháng sư phạm vùng rừng núi Troóc, miền tây Bố Trạch thì mẹ bị máy bay Mỹ bắn rócket chết ở Cầu Rào, Đồng Hới. Thế là Hải Kỳ mất mẹ, cha thì ở miền Nam, không có tin tức gì. Từ đó, Hải Kỳ dạy học, nuôi em trai Trần Văn Hà. Năm 1980, 31 tuổi, Hải Kỳ mới thi vào khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Bốn năm làm sinh viên ở Huế là bốn năm Hải Kỳ bùng nổ về thơ. Hàng chục bài thơ hay, đầy ám ảnh của Hải Kỳ là viết ở Huế trong thời kỳ này. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm, anh lại trở về dạy ở trường cấp 2 Đức Ninh, Đồng Hới cho đến khi xin nghỉ hưu sớm 5 năm vì chán cảnh dạy thêm học thêm, chán cảnh chạy theo thành tích trong giáo dục...
Trong sổ tay của rất nhiều bạn trẻ Huế, Quảng Bình, Đà Nẵng và cả nước còn lưu những bài thơ tình hay của Hải Kỳ. Anh làm thơ từ thời học sinh phổ thông trung học. Năm 1970, Hải Kỳ được trao giải thưởng cuộc thi thơ ở Quảng Bình với bài thơ “Tiếng bom”. Hải Kỳ đã xuất bản 5 tập thơ: Ngọn gió đi tìm (1987 - tái bản 2001); Đồng vọng (1989); Nằm đếm trời sao (1997); Đối thoại lục bát (1999); Giấc mơ (2009). Ngoài ra, trong nhiều tuyển tập thơ lớn của Việt Nam thế kỷ XX và các địa phương như miền Trung, Huế, Quảng Bình... đều có sự góp mặt của thơ Hải Kỳ. Anh có nhiều bài thơ hay, ám ảnh như bài thơ Mẹ tôi, Tôi ra Cửa biển, Tôi và em với Thiên An, Người phu mộ, Tôi nhìn cho đến... Hải Kỳ là nhà thơ có bài thơ lục bát hay được chọn vào Tuyển lục bát Việt Nam hai thế kỷ, có nhiều câu thơ tuyệt hay được chọn trong tuyển “Những câu thơ tài hoa Việt Nam”... Đặc biệt trong các tuyển tập thơ quan trọng như Thơ Việt Nam thế kỷ XX (Nxb. Giáo Dục), Tuyển tập thơ Việt Nam 1975 - 2000, Nhà văn Việt Nam Hiện đại Quảng Bình, Thơ miền Trung thế kỷ XX, Hai thập kỷ thơ Huế, 700 năm thơ Huế, Thơ 20 năm Sông Hương đều tuyển chọn những chùm thơ hay của Hải Kỳ. Phim chân dung Hải Kỳ - thơ và biển do VTV Huế sản xuất năm 2010 đã phát nhiều lần trên sóng VTV1, VTV3, VTV Huế phần hình ảnh trong phim là khung cảnh Đồng Hới và Huế như sông Nhật Lệ, cửa biển Hải Thành, nhà thờ Tam Tòa, đồi thông Thiên An, lò rượu chị Hiếu ở Phú Cam, trường Hai Bà Trưng, Sông Hương v.v.. nơi phát tích của những bài thơ Hải Kỳ.
Hải Kỳ tuyển tập được chia làm 3 phần: Phần 1 là Thơ tuyển với 268 bài thơ trong toàn bộ sáng tác thơ của Hải Kỳ trong hơn 40 năm cầm bút, được chọn lọc, đáp ứng nhu cầu yêu thích thơ Hải Kỳ của công chúng. Thơ Hải Kỳ sâu đậm với hai vùng quê gắn bó với đời anh là Đồng Hới và Huế. Trong tuyển có hàng trăm bài thơ viết ở Đồng Hới như Mẹ tôi, Tôi ra cửa biển... Lại có gần trăm bài thơ viết về Huế như Tôi và em với Thiên An, Chơi chùa Bảo Quốc, Bỗng nhiên ngọn lửa, Nhớ Huế, Người phu mộ, Diệp liễu vàng, Nói với Huế v.v.. Nhiều người yêu thơ vẫn thuộc những câu thơ da diết của Hải Kỳ:
Chao ôi cây nối liền cây
Người sao chẳng biết cầm tay với người
Giữa rừng em với mình tôi
Lặng im giấu một khoảng trời Thiên An.
(Tôi và em với Thiên An)
Hay:
Đêm này, đêm Chúa giáng sinh
Tình yêu tôi cũng tượng hình đêm nay
Chúa Trời giang rộng cánh tay
Trên cây Thánh giá lưu đày khổ đau
Tình yêu tôi cũng nhiệm màu
Đóng đinh tôi ngàn thuở đầu trang thơ
(Dạ khúc Nô en)
Một lần chơi chùa Bảo Quốc, trò chuyện với con chim nhồng được nuôi trong lồng ở gần chùa, Hải Kỳ đã để lại cho Huế những vần thơ sâu sắc: Tiếng con chim Phật nghe rồi/ Cứ nghi hoặc đấy là lời hư vô/ Như là từ xửa từ xưa/ Khổ đau luyện mãi mà chưa thoát trần...
Phần 2 là Bài viết, Nhật ký, Thư từ, giúp bạn đọc hiểu thêm cuộc đời nhà thơ, những ghi chép, suy nghĩ xúc động và thú vị về văn chương, thế sự trong cuộc sống thường nhật. Đây là đoạn nhật ký Hải Kỳ ghi về bữa cơm của bố con nhà thơ - nhà giáo chuyên văn Mai Văn Hoan ở khu tập thể trường Hai Bà Trưng thời bao cấp, ngày 18-10-1980: “Nhưng Hoan vẫn đi vay gạo. Không vay được, Hoan mua về 2 ổ mì. Nào ăn đi! Cả cơm nữa nhé! Hoan tuyên bố như trước bữa tiệc. Cơm ư? Chao ôi, bạn cũng như tôi. Bữa cơm chỉ được lưng bát trộn sắn khô. Thức ăn là dăm con tôm như lá cỏ và một bát canh khế trong như nước suối. Ôi! Nói cái điều ăn uống ra đôi khi cũng chẳng hay ho gì. Nhưng bữa ăn của người mà dở đến thế thì giữ cái hay làm chi...”. Hay trong thư gửi Ngô Minh ngày 5-11-1985 sau bão số 8, Hải Kỳ nhắc lại những kỷ niệm về bạn bè rất cảm động: “...Ở đây, cơn bão có gây lụt lớn vùng Phú Vinh, Cộn, Mĩ Cương… làm trôi nhà cửa đường sá. Duy nhà thơ, à quên, thi sĩ ở đỉnh đồi và nhà tập thể nên cũng bị xoàng thôi. Thế mà lại được tiền nong, cơm gạo quyên góp của các nhà thơ “Pê tec bua” cứu trợ thì thật phúc đức hơn dân chúng nhiều lắm. Các anh Tô Nhuận Vỹ, Sĩ Sô ra sau bão. Uống rượu đến 1 giờ sáng, đi bộ từ nhà Thúc Hà về 5 “cây-lô-mếch”, với một cái chai không cầm làm nhịp và “vũ khí tùy thân”… Sau đó một tuần thì Mây, Thạch và anh Quang Hà lại xuất hiện để an ủi lần nữa.
Ban Giáo dục Đồng Hới đang “thuê” Hải Kỳ nói chuyện thơ cho 16 trường thị xã, chia làm 3 cụm để thi sĩ đi về 3 nơi. Hải Kỳ sẽ nói về thơ thật, cảm hứng thật, cuộc đời thật của Mai a, B lôc, Ê xê nhin, Ép tu sen cô, Ra xun và bạn bè. Sẽ chửi rủa ra trò bọn thơ giả, bọn cơ hội trong đời này”.
Phần 3 là Hải Kỳ trong lòng bè bạn gồm những bài viết về thơ Hải Kỳ và thơ tặng Hải Kỳ của rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình và bạn yêu thơ trong cả nước, trong đó có những người nổi tiếng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Trọng Tạo, Hoàng Vũ Thuật, Nguyễn Quang Lập, Lê Xuân Đố... Trong bài “Cõi thơ Hải Kỳ”, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết:
Thế mà cũng ngóng, thế mà lại trông
Rứa là Huế đó, răng không
Đa tình với núi với sông với người
Đa tình đến ý nhị vậy cũng thật đáng đa tình. Đây là nói cái ý nhị của hồn thơ, của cái cõi thơ. Nhưng để chở cái hồn cái cõi ấy, phải nói đến chữ của thơ. Cũng “răng” cũng “rứa” mà sao trong thơ Hải Kỳ nó như có ma lực vậy? Chính từ ngữ dùng đắc địa, nó đã tạo cho thơ anh trở nên lung linh sống động mà có sức hướng nội. Nó không chỉ dính vào ta mà còn làm ta “phải lòng” nữa...”.
Những bài viết và thơ tặng chính là sự cuốn hút, lay động của thơ và nhân cách sống của Hải Kỳ đối với tác giả. Đọc phần này, độc giả sẽ thấy được sức sống của nhân cách thơ nhà thơ Hải Kỳ trong lòng bè bạn.
Để có Hải Kỳ tuyển tập xúc động và chất chứa, từ sau Tết Nhâm Thìn, tôi đã có thông báo rộng rãi trên các trang web, blog “kêu gọi mọi người có các bài thơ, bài viết, thư từ hay tài liệu liên quan đến nhà thơ Hải Kỳ thì gửi về cho Ngô Minh hoặc Mai Văn Hoan...”. Nhờ thông báo đó mà chúng tôi đã nhận được một số bài thơ, bài viết, thư từ quan trọng. Thì ra thơ, thư Hải Kỳ có trong va-ly của nhiều người lắm, nhất là các người đẹp. Mặt khác, nhà báo Trần Minh Văn, con trai út của nhà thơ đã thức mấy chục đêm liền để đánh máy hết toàn bộ 5 tập thơ đã xuất bản của bố. Mai Văn Hoan thì cắm cúi từng đêm đọc lại những trang nhật ký, những lá thư đã vàng ố thời gian để chọn những đoạn nhật ký, lá thư ưng ý nhất vào Tuyển tập. Tất cả công việc đó được tiến hành khẩn trương, song song với việc gửi thư đề nghị Hội Nhà văn Việt Nam đầu tư kinh phí để in ấn tuyển tập. Bây giờ giá giấy lên cao, in một cuốn sách dày 600 trang giá thành lên đến 75 nghìn đồng/cuốn. Gia đình vợ con Hải Kỳ lại nghèo. Vợ không có lương hưu. Lâu nay hai vợ chồng chỉ sống bằng đồng lương hưu của Hải Kỳ. Thấy hoàn cảnh eo hẹp, anh Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam duyệt cho 20 triệu đồng. Hôm hội thảo “Văn học nghệ thuật trong dòng chảy văn hóa Huế” ở Huế, anh Hữu Thỉnh đã khoác vai tôi bảo: “Thông cảm. Thông cảm cho mình. Mình thương Hải Kỳ lắm. Nhưng hai mươi triệu là tối đa. Là diện đặc biệt rồi. Không thể hơn. Không thể hơn”. Tôi ôm nhà thơ Hữu Thỉnh rất chặt, giống như ảnh Hải Kỳ đã ôm Hữu Thỉnh ngày nào, mà chúng tôi đã chọn in trong tuyển. Nhà thơ Lê Đình Ty ở Đồng Hới thì chăm chút từng con chữ, từng trang tuyển tập. Đọc mo-rát bản thảo, phát hiện thấy mấy câu thơ không đúng theo trí nhớ của mình, anh cũng cẩn thận lục tìm bản gốc là các tập thơ Hải Kỳ để tra cứu, chỉnh sửa.
Tuyển tập Hải Kỳ in xong trước ngày giỗ đầu của nhà thơ là một cố gắng đáng trân trọng của anh em biên tập, của Hội Nhà văn Việt Nam, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Bình và gia đình. Với tất cả tình yêu mến và lòng kính trọng nhân cách và sự nghiệp thơ Hải Kỳ, xin trân trọng gửi đến bạn đọc Huế cuốn Hải Kỳ tuyển tập dày dặn, đầy đủ này.
Huế, tháng 6 năm 2012
N.M
(SH281/7-12)
.......................................
Hải Kỳ tuyển tập, NXB Thuận Hóa, 2012.
Trình làng một tập thơ vào thời điểm đương đại luôn tiềm chứa nhiều nguy cơ, và người viết hẳn nhiên phải luôn là một kẻ dấn thân dũng cảm. Nhiều năm qua, phải thú thực là tôi đọc không nhiều thơ, dù bản thân có làm thơ và nhiều người vẫn gọi tôi như một nhà thơ đích thực.
Chúng ta đ ề u đã bi ết Hàn Mặc Tử n ằ m ở nhà thương Qu y Hoà từ 21- 9 -1940 đ ế n 11 - 11 -1940 thì từ tr ầ n. Nhưng có một đi ề u dám chắc ai cũng băn khoăn là su ố t trong 51 ngày đ êm đó, thi sĩ có làm bài thơ nào không?
Công chúng yêu sân khấu cả nước ngưỡng mộ Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Bình với tư cách là một diễn viên tài năng, một đạo diễn gạo cội, một lãnh đạo ngành sân khấu năng nổ, nhưng ít ai biết anh còn là một tác giả sáng tác kịch bản văn học cho nhiều thể loại sân khấu, mà chủ yếu là kịch nói và ca kịch...
Kể từ khi ca khúc “Có một dòng sông” được công bố lần đầu tiên qua loa truyền thanh xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do chính tác giả cầm guitar thùng trình bày khi vừa viết xong, đến nay vừa tròn 40 năm, nhưng sức lay động của bài ca vẫn còn ngân vang mãi trong nhiều thế hệ người nghe được sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy, bất chấp dòng chảy thời gian.
Mẹ trong mỗi chúng ta là hình ảnh đầy thiêng liêng và diệu kỳ. Mẹ! Có nghĩa là duy nhất/ Một bầu trời/ Một mặt đất/ Một vầng trăng/ Mẹ không sống đủ trăm năm/ Nhưng đã cho con dư dả nụ cười tiếng hát (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên).
(Đọc “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời” của Jean-Claude Grumberg, Nxb. Văn học 2023 - Dịch giả: Hoàng Anh).
Nhìn thấu mà không nói thấu là đỉnh cao cảnh giới xử thế trí tuệ. Nói theo thuật ngữ Phật học, cái trí nói chung có ba phần hợp thành là trí thức, trí tuệ và trí huệ.
Lê Minh Phong (sinh 1985) vốn cùng quê với Huy Cận, nhưng xa hơn về phía núi. Cả hai đều có một tâm hồn cổ sơ. Nét hoang dã của vùng đất ấy đã tạo ra ngọn Lửa thiêng trong thơ Huy Cận, tạo nên những huyền thoại, cổ tích trong văn xuôi Lê Minh Phong.
(Đọc tập tiểu luận “Ngắn dần đều” của Hoàng Đăng Khoa, Nxb. Đà Nẵng và Book Hunter, 2024)
YẾN THANH
Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.
Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.
VÕ QUỐC VIỆT (Đọc “Đất Việt trời Nam liệt truyện” của Trần Bảo Định)
Tập thơ Vực trắng, Nxb. Hội Nhà văn quý 2/2024 của nhà thơ, nhà báo Lữ Mai gồm 55 bài thơ, được sắp xếp thành 6 phần: “Từ núi”, “Đi lạc”, “Nói bằng gai sắc”, “Trở về chạng vạng”, “Gửi Huế”, “Cánh tàn bừng giấc”.
HỒ THẾ HÀ
Lê Quang Sinh sáng tác thơ và trở thành nhà thơ được độc giả cả nước yêu quý và đón nhận nồng nhiệt. Nhưng ít ai biết Lê Quang Sinh là nhà phê bình thơ có uy tín với mỹ cảm tiếp nhận bất ngờ qua từng trang viết đồng sáng tạo tài hoa của anh.
PHONG LÊ
Hải Triều, đó là một tên tuổi quan trọng trong sinh hoạt văn chương - học thuật thời kỳ 1930 - 1945. Ông vừa giống vừa khác với thế hệ những đồng nghiệp cùng thời, nếu xét trên phạm vi các mối quan tâm về học thuật.
TRẦN HOÀNG
HỒ THẾ HÀ
Võ Mạnh Lập là nhà văn chuyên viết ký (essai/ essey) với thế mạnh sở trường nghiêng về ký sự, truyện ký, bút ký, hồi ký, phóng sự, ghi chép…
NHẬT CHIÊU
(Chiyo-ni: The relief offered by haiku)
Có một nghệ thuật cứu chữa, cứu thoát chúng ta trong cuộc sống bản thân trong tình trạng thương tổn, trong tâm lý và tâm linh, đó là thực tập viết thơ và đọc thơ.
HỒ THẾ HÀ
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ tài danh của nền thơ Việt Nam hiện đại.