Chào mừng Mỹ Sơn, Hội An: di sản văn hóa thế giới

09:29 03/03/2010
NGUYỄN SINH DUYMỹ Sơn: thung lũng các vua thánh

Phố cổ Hội An - Ảnh: chudu24.com


Gọi là "thung lũng các vua thánh" vì mỗi triều đại Champa đều có xây tháp kỷ công,một mặt lưu dấu vương hiệu mình, mặt khác dâng cúng các thần linh Ấn giáo đã ít nhiều bị bản địa hóa, nằm trong lòng chảo núi non ấy. Người Chàm, những thế kỷ đầu Tây lịch, đã có cái nhìn thực tế khi xây dựng giang sơn trên vùng trung du và đồng bằng phía nam đèo Hải Vân. Về phương diện kinh tế nông nghiệp, xét trên bình diện dân số / diện tích, cơ sở dân cư cho phép duy trì sự hiện hữu của một đất nước vào buổi bình minh lịch sử. Xét riêng một mặt địa - chính trị (géopolitique) thuần / Chàm, vùng đất này nằm đúng vào điểm hội tụ của các hải trình từ tây sang đông, từ bắc xuống nam, và ngược lại; lại có cửa sông Hội An mở lối dẫn vào nội địa, cũng như từ nội địa ra biển cả để đến các nước viễn dương. Cũng chính vùng đất này, những con đường đầu tiên từ duyên hải thâm nhập vào lục địa, giúp người Chàm quan hệ máu thịt với các tộc cư dân láng giềng còn sống man rợ trên núi non cao nguyên. Sử chép: tiếp giáp phía tây của vương thổ Chàm thời lập quốc là xứ Trao Khúc; danh xưng "Trao" ấy nay còn tồn tại trên vùng tây huyện Đại Lộc.

(Thung lũng Mỹ Sơn hiện còn di tích của một quần thể đền tháp Ấn Độ giáo lớn - Ảnh: vnphoto.net)

Xa xưa, do cửa sông Hội An, có thể theo sông Mỹ ngược đến thềm thung lũng Mỹ Sơn, sau khi vòng quanh kinh thành Trà Kiệu tráng lệ, nguy nga.

Mỹ sơn không náo nhiệt như đô thành Trà Kiệu, chỉ là một non cao huyền bí, xa hẳn thế giới khuấy động của con người và ngựa xe, ở đó chỉ dành cho sự cảm niệm tâm linh, lời cầu kính trầm lặng quanh quần thể đền tháp, hang ẩn tu, thảng hoặc có âm vang là tiếng hòa âm cử lễ tôn giáo kéo dài giữa không khí tĩnh mịch, thỉnh thoảng nổi lên những tràng điệp khúc thần chú trầm trầm trong tiếng nhạc lễ. Không kiến trúc vĩ mô như Angkor, chỉ cấp những đền tháp khiêm tốn ẩn mình trong dấu điêu khắc đầy mỹ lệ, đủ cưu mang che chở lòng mộ đạo của các tăng lữ Bà la môn hay vài nhà cao sĩ ẩn tu. Sư sùng ngưỡng này cắt nghĩa tính quần tụ ngổn ngang của gần hàng trăm công trình xây dựng thần bí và sùng kính. Đó cũng là nơi các vương triều Champa cầu nguyện, ký thác giang sơn xứ sở cho thần linh giữ gìn bảo hộ.

Người đầu tiên phát hiện thánh địa Mỹ Sơn là cố Nhơn (Bruyère) giáo sĩ cai quản xứ đạo Trà Kiệu, vào năm 1886. Tháng 7 - 1895, Camille Paris là người đầu tiên khai phá bụi rậm rễ cây để đón khâm sứ Brière tham quan. Năm 1899, các học giả Louis Finot, De Lajonquière rồi Henvi Parmentier tìm đến khảo sát, nghiên cứu. Cả một nền văn minh kiến trúc và điêu khắc hòa quyện trong nền tín ngưỡng tâm linh đã được thế hệ bác học Pháp đưa ra trước ánh sáng nhân loại. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản cũng bắt đầu nói tới một xứ sở Rin-Yu (Lâm ấp) hoặc Sen-jiyo.

Hội An, cô tiểu thủ trung lưu khó tính không chịu theo thời đổi thay.

(Chùa Cầu Hội An - Ảnh: simplevietnam.com)


Vâng, nàng tiểu thư ấy, trước đà tiến hóa của lịch sử, không chịu thích nghi dòng đời, vẫn trì thủ nền nếp cố hữu của mình. Dấu tích nền văn minh thương nhân từ thế kỷ 17 vẫn còn đấy với "cầu có lợp mái để ngồi buôn bán dưới dòng nước ghe thuyền buồm trụ giăng, sản vật từ góc núi bến biển đều đổ về" (Trùng tu-Cai Viễn Kiều ký), con đường người Nhật, đặc biệt phố người Đường với những dãy nhà thấp lè tè mà sâu hun hút thông từ bến sông lên đến mặt đường, diện tích ở cho người không bao nhiêu nhưng không gian chứa hàng thật mênh mông. Cái kho trữ hàng hóa sung mãn ấy, Bình Nam đồ bảo là Hội An khố, làm ăn rất phát đạt suốt trong hai thế kỷ 17 & 18, tiếng tăm lừng lẫy trong phạm vi mậu dịch các nước Đông Nam Á mà còn quyến rủ các chàng tư mã Âu Châu Hà Lan, Bồ đào Nha, Anh, Pháp... tìm đến nô nức đô hội một thời. Sự phát đạt ngày nay có thể nhìn thấy rõ trên các chùa miếu qui mô của các bang người Hoa một thời, tại Hội An...

Cửa biển Đại Chiêm phồn thịnh non mười thế kỷ với người Chàm, đến người Minh lập phố trên cửa sông Hội An trong hai thế kỷ tiếp theo, rồi trải qua năm trăm năm Đại Việt làm chủ một cách hữu hảo hòa đồng dân tộc, ngày nay nó đã được thế giới thừa nhận là di sản văn hóa của nhân loại. Một trục thẳng không gian địa lý - kinh tế, trên kia là thánh địa của tâm linh hướng tới một thế giới siêu hình, dưới này là trung tâm mậu dịch sầm uất được củng cố với những triết thuyết, tín ngưỡng không kém phần kinh tế thực tiễn là Nho giáo, là những Quan Thánh, Thiên hậu, Bà Mụ, Ông Bổn... những thần thánh rất cận nhân tình.

Thế giới đã sâu sắc nghiên cứu đi đến thừa nhận, trách nhiệm của cộng đồng chủ sở hữu bảo tồn và phát huy di sản không phải không nặng nề. Nó đòi hỏi nhiều công sức vật chất cũng như những nổ lực tinh thần để khai quật một nền văn minh cổ sơ hàng ngàn năm lịch sử, và một phức hợp văn hóa-khảo cổ trong năm thế kỷ có dư.

N.S.D
(131/01-2000)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BỬU ÝMột đất nước có lịch sử lâu đời hẳn nhiên thừa hưởng di sản phong phú và đủ loại.Trước hết, vấn đề di sản không nhất thiết đi đôi với Festival. Di sản có thể nằm  một cõi, mà Festival lại nằm một nơi. Cũng có thể phát huy riêng rẽ, phục vụ quần chúng khác nhau, nhưng cùng chung một trục văn hoá để cùng được bảo tồn và phát huy. Nhưng nếu di sản sánh đôi với Festival thì đó là một cuộc nên duyên như được dành sẵn.

  • PHAN THUẬN ANMối quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt đã bắt đầu có từ hơn nửa thế kỷ trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong gần 30 năm trở lại đây.

  • NGUYỄN THẾPhước Tích là một trong những ngôi làng được hình thành từ thế kỷ XV thuộc xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ban đầu, vào thời Lê sơ làng có tên là Dõng Quyết, sau đổi thành Phước Giang, đến thời Tây Sơn làng có tên gọi là Hoàng Giang, đến triều các vua Nguyễn, làng được đặt tên là Phước Tích cho đến nay.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHuế là một trung tâm văn hóa Việt Nam, các di tích thuộc Cố đô Huế và Nhã nhạc Cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là hai di sản văn hóa của nhân loại. Điều đó không có gì phải bàn luận nữa. Điều mà chúng ta quan tâm, ngoài cái phần vật chất đó, ngoài Nhã nhạc cung đình Huế thì cái hồn, cái phần phi vật chất của trung tâm văn hóa Huế là cái gì, hiện ở đâu, làm thế nào để có thể tiếp cận và toàn cầu có thể sử dụng phát huy được?

  • NGUYỄN HỮU THÔNG Biểu tượng khu trung tâm trong quan niệm của nhiều tộc người, phần lớn đều liên quan đến các mối thông linh với thế lực siêu nhiên. Hệ đức tin biểu thị từ sự chọn lựa địa điểm thiết lập vùng trung tâm của người xưa, cũng mang mô hình gốc của thần thánh. Sự chọn lựa này có ý nghĩa quyết định và là công việc đầu tiên trong quá trình thiết lập một vùng cư trú.

  • NGUYỄN VĂN CAOLTS: “Thành phố và phát triển địa phương” là hai chủ đề tại Đại hội đồng lần thứ 27 của Hiệp hội Quốc tế các Thị trưởng nói tiếng Pháp (AIMF) tổ chức tại Huế từ ngày 24 đến ngày 26-10-2007, hội tụ trên 200 đại biểu là thị trưởng của các thành phố thành viên thuộc 46 nước trên thế giới. Đây là đại hội đồng lần đầu tiên tổ chức tại Việt và là lần thứ 2 diễn ra tại khu vực Đông Á (năm 2003 đã tổ chức tại Pnômpênh, Campuchia).

  • THÁI DOÃN LONGVà tôi cũng muốn mượn ý châm ngôn về Sêda để nói rằng cái gì thuộc về Quang Trung hãy trả lại cho Hoàng đế Quang Trung.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN Như chúng ta đã biết: Hoàng Cung, Bảo tàng cổ vật, các lăng vua Nguyễn ở Huế là những nơi lưu giữ các cổ vật quý của triều Nguyễn và Huế xưa.

  • PHAN THUẬN THẢO1. Từ quan điểm về hệ thống “Báu vật nhân văn sống” của UNESCO...

  • Những ai đã từng đi đường bộ từ Bắc vào Nam đều phải vượt đèo Hải Vân và đã chứng kiến cái di tích Hải Vân Quan đứng sừng sững trên đỉnh đèo nhìn về phía vịnh Đà Nẵng.

  • Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.

  • Toàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.