HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Chiếc áo dài đầu tiên đời tôi được mẹ may vào năm tôi lên Đệ Thất (lớp 6 bây giờ). Biết nói sao niềm vui sướng của tôi khi lần đầu mặc chiếc áo dài ấy!
Ảnh của NSNA Nguyễn Trực
Đi học mà tôi cảm giác như dọc đường ai cũng ngắm mình mặc dầu thuở ấy thân hình còn thẳng đuột như cây sậy, nước da lại đen thủi đen thui như thùng dầu hắc mà chiếc áo lại may thẳng tuột, chẳng nhíp eo, rộng thùng thình?
Nhưng may như thế mà lại hay! Bởi khi mặc áo dài đi học, tôi có thể túm hai vạt áo thành hai đùm để tiện nhảy dây, chơi ù mọi hay bịt mắt bắt dê… Hay khi tới nhà bạn chơi, thấy cây đào cây ổi có trái là trèo tuốt lên cây.
Lên lớp Đệ Tam thì bắt đầu biết làm dáng. Lúc đi may áo, biết chọn lụa tơ tằm, ủi thẳng tắp, hai tà mềm mịn, tạo dáng nhẹ nhàng thanh thoát. Tuy thế, đi học ở trường Đồng Khánh, mấy cái trò cột vạt áo nhau, hay gắn giấy có ghi dòng chữ: “Tui cần chồng gấp!” hay: “Tui đang cô đơn” vẫn thỉnh thoảng tái hiện trên vạt chiếc áo dịu dàng này.
Vào năm Đệ Nhị, có một kỷ niệm khó quên về chiếc áo dài Việt Nam. Năm ấy, một hôm Kiều Kim Ân vào nhà tôi, khoe tía lia: “Huy ơi bữa ni tau may được áo dài rồi. Mi ưa tau dạy cho mi không?” Làm răng mà không ưa được khi con gái Huế, đứa nào mà chẳng thích mình đạt bốn chữ công dung ngôn hạnh? Hơn nữa biết may áo dài thì từ nay giảm tiền công may áo, tha hồ mua thêm vải. Thế là tôi lập tức xin mẹ tiền, hai đứa dẫn nhau xuống chợ Xép mua hai xấp lụa Hồng hoa. Suốt mấy ngày hôm ấy, hai chúng tôi như hai con ong cần mẫn, một cô một trò thay phiên đo kích cỡ thân thể nhau, lấy giấy báo cắt mẫu, rồi mới cắt chính thức vào vải. Vốn dĩ chúng tôi đã học giờ May từ lớp Đệ Thất trong chương trình môn nhiệm ý (môn phụ) nên may đường kim mũi chỉ rất khéo. Sau ba ngày cật lực lao động của hai đứa, chiếc áo đã có hình hài, tay raglan, cổ cao 1 phân, đường kim mũi chỉ khá hoàn hảo. Nhưng khi mặc thử, một điều kỳ dị đã xảy ra khiến cả hai đứa ôm nhau cười ra nước mắt. Đó là hai tà áo, thay vì úp vào hông theo chiều thân thể như các nhà may nổi danh Chi, Thùy Trang, Cuộc… vẫn may, nay lại quéo ra như đôi cánh con ve ve khi vừa lột vỏ. Ôi thế là mộng vỡ tan tành! Làm sao mà dám mặc đến trường đây? Tiếc tiền mua vải nên tôi thẫn thờ. Cô giáo Kim Ân thì đăm chiêu suy nghĩ. Quái lạ răng lại ri hè? Chẳng lẽ chừ vất cái áo dài ni à? Tôi bất chợt nghĩ ra mưu kế: “Ân ơi đừng lo. Tụi mình chỉ mặc khi trời lạnh. Cái áo len phủ bên ngoài sẽ che cái tà xòe vểnh ra thì không ai thấy mà chê vụng mô.” “Ok, nhất trí!”… Thế là mùa đông năm ấy hai chúng tôi mặc áo dài ấy đến trường. Các bạn xúm hỏi: “Áo mới há!” Tui kiêu hãnh trả lời: “Ừ áo mới! Mà áo mình tự may đó”. “Thiệt không?” “Răng mà không thiệt hè! Kim Ân dạy mình may đó”. Thế là bầy bạn xúm sang Kim Ân: “Ân ơi dạy cho mình với!” Mụ Ân được dịp lên mặt ta đây: “Đứa mô ưa học thì khoanh tay thưa cô rồi mua vải về tau dạy cho”. Lũ bạn đua nhau vòng tay: “Chúng cháu dạ cô ạ!” Tui véo vào người nó nhắc nhỏ: “Ê đừng có sản xuất thêm một bầy áo dài tà xòe như cánh ve sầu vừa lột vỏ nữa nghe mụ mi”. Chiều ấy, tan học, Kim Ân chở tôi về trên xe Honda của nó. Tự nhiên có hai anh chàng cứ đi theo chúng tôi. Qua kính chiếu hậu, Kim Ân nhìn thấy chúng nên hỏi tôi: “Ê Huy, hai cái thằng nớ đi theo hai đứa mình làm chi rứa hè?” Tui đáp tỉnh queo: “Chắc tụi hắn biết hai đứa mình mặc áo dài tà lật quéo nên đi theo xin chữ ký đó”. Nó cười rung rung làm chiếc xe suýt bổ nhào.
Bốn mươi năm sau Kim Ân về thăm tôi. Chẳng hiểu sao nó quên kỷ niệm ấy. Khi tôi nhắc lại, nó cười bò lăn bò toài, bò nghiêng bò ngả. Nó nói một câu mà tôi vô cùng xúc động: “Huy ơi ngày ni tau quá hạnh phúc vì được mi nhắc lại chuyện may áo dài ngày xưa của hai đứa mình”.
Chiếc áo dài lại đi theo tôi lên giảng đường Đại học Sư Phạm, Đại học Văn Khoa với nhiều sắc màu hơn. Khi thì màu vàng để được lắng nghe “người nớ” hát khe khẽ: “Áo nàng vàng anh về yêu hoa Cúc”, khi thì màu tím Huế để ai đó lại hát khúc tình ca: “Một chiều lang thang bên dòng Hương giang tôi gặp một tà áo tím.”… Rồi chiếc áo dài Việt Nam lại theo chân tôi lên bục giảng của người giáo viên qua nhiều năm tháng dạy học của đời tôi. Và nay vẫn lại theo tôi qua những buổi giao tiếp với khách quốc tế, những buổi tham luận trên các diễn đàn văn hóa trong và ngoài nước…
Qua hơn năm mươi năm mặc áo dài, tôi vẫn luôn trung thành với lối may truyền thống: áo tay nối, nút thắt, đa phần vải lụa trơn chứ không thêu rồng phượng uốn éo đầy vạt, eo thả rộng… Dù bên ngoài cuộc sống, với trào lưu mốt của thời trang, chiếc áo dài đã được canh tân đủ kiểu dáng. Nhiều du khách đã nghe tiếng về tôi - người phụ nữ Việt luôn với áo dài Việt, trước khi đến thăm tôi, đã điện hỏi rất quan trọng: “Chúng tôi muốn hỏi phải ăn mặc như thế nào khi đến thăm bà cho phải phép?”. Tôi đã trả lời rằng: “Bạn đang đi du lịch nên việc bạn ăn mặc như thế nào là tùy sở thích của bạn, miễn sao bạn thấy thoải mái và không phản cảm với phong tục của đất nước tôi. Riêng tôi, tôi sẽ mặc áo dài truyền thống Việt Nam để tiếp bạn. Vì điều này sẽ nói lên lòng tôn kính của tôi đối với bạn.”
Những chiếc áo dài trước năm 1975 của tôi đã không còn do chiến tranh. Nhưng kể từ sau năm 1975, tôi chưa bao giờ đành đoạn vất bỏ một chiếc áo dài nào đã gắn bó với cuộc sống của tôi dù nó đã quá cũ, quá chật hay vải đã sờn. Bởi qua bao năm tháng của một cuộc đời lắm thăng trầm, chiếc áo dài Việt đã cùng tôi đón nhận bao nỗi buồn vui. Trên đất khách, đã bao lần tôi được các bạn đồng nghiệp, học sinh hải ngoại mân mê tà áo Việt Nam với lòng ngưỡng mộ. Khách đến thăm nhà, chiếc áo dài thay tôi tỏ lòng kính khách. Trên giảng đường chiếc áo dài đã nhân thêm nhân cách của một cô giáo. Viếng thăm tang lễ, chiếc áo dài thay tôi nỗi chia sẻ đau buồn và tôn kính hương linh khuất núi. Hay năm xưa trèo cây hái quả, vạt áo dài đã giúp tôi đùm được một đống đào ổi để cùng lũ bạn chấm muối ớt ăn… Vì thế khi các con tôi càu nhàu: “Cái gì mẹ cũng cất kỷ niệm làm chật cả nhà”, tôi chỉ bày tỏ niềm mong ước một ngày tôi không còn nữa, tủ áo dài gắn bó cuộc đời lao động học tập của tôi sẽ vẫn còn đó. Nó là hơi thở, linh hồn cuộc sống của đời tôi.
H.T.N.H
(SHSDB41/06-2021)
TRẦN NGUYÊN HÀO
Lòng nhân ái của Bác Hồ dành cho mọi người dân Việt Nam; tình yêu thương ở Bác lan tỏa đến những người nô lệ mất nước và những người cùng khổ trên khắp thế gian, cho những người da đen bị phân biệt chủng tộc, cho cả những người da trắng bần cùng, cho những người phụ nữ các nước đế quốc thực dân có chồng con bị đưa sang Việt Nam và nước thuộc địa làm bia đỡ đạn; và cho cả chính những người lính ở bị đưa đi đánh nhau và nhận những cái chết oan uổng trong các cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa.
HÀN NHÃ LẠC
Thêm một giọng ca tài danh từng tôn cao giá trị di sản ca Huế vừa ra đi: nghệ sĩ nhân dân Minh Mẫn vừa qua đời ngày 13 tháng ba năm 2018, nhằm ngày 26 tháng giêng âm lịch.
ĐẠI HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ LẦN THỨ NHẤT
(Trích bài phát biểu của đồng chí Vũ Thắng, nguyên ủy viên BCH Trung ương Đảng CSVN, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế tại Đại Hội)
HÒA ÁI
Đến nay, những bài thơ chúc Tết của Hồ Chủ tịch đã trở thành di sản của dân tộc. Những bài thơ chúc Tết của Bác trong mỗi dịp Tết đều toát lên tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta trong một giai đoạn lịch sử.
PHẠM PHÚ PHONG
Du ký
Do cách chia thời gian theo ngày tháng, người ta thường coi thời gian trôi/ đi qua, nhưng thực ra thời gian vẫn đứng yên đó thôi, chỉ có con người và vạn vật trôi qua dưới con mắt chăm chú, kiên trì và nhẫn nại của thời gian.
TRẦN THỊ KIÊN TRINH
Là em gái của anh nhưng khi tôi được sinh ra anh đã tròn hai mươi tuổi. Những gì nhớ về anh chỉ là ký ức tuổi thơ trong khu vườn tranh thỉnh thoảng anh về.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
(Viết từ lời kể của cựu chiến binh Đặng Hà)
Tôi tình cờ đọc được thông tin Hải quân Mỹ lấy thành phố Huế để đặt tên cho một tuần dương hạm mang tên USS Hue City (CG-66). Tuần dương hạm này thuộc lớp Ticonderoga, trang bị tên lửa, gắn với trận đánh Trung đoàn 1, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tham chiến Huế vào dịp Tết Mậu Thân.
NGUYỄN TỰ LẬP
Cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam cách đây tròn nửa thế kỷ (1968 - 2018).
Những tượng đài thiêng liêng trong lòng dân Quảng Điền
NGUYỄN QUANG HÀ
Bút ký
Thái độ về cuộc Cần Vương
Người thẩm vấn (NTV): Ông có phải là kẻ hâm mộ người anh hùng cuối cùng trong cuộc tử chiến chống người Pháp đó không?
CHƯƠNG THÂU
Hồ sơ Thẩm vấn là tập tài liệu khá khá dày dặn của Hội đồng xử án Tòa Đề hình của chính quyền thực dân để chuẩn bị xử Phan Bội Châu vào ngày 23/11/1925 tại Hà Nội.
LTS: Kỷ niệm 150 năm ngày sinh của chí sĩ Phan Bội Châu, Sông Hương được tiếp cận với bản thảo “Vụ án Phan Bội Châu năm 1925: Hồ sơ thẩm vấn”. Đây là nguồn tư liệu quý, nằm trong tập Bổ di II lần đầu được công bố về vụ án chí sĩ Phan Bội Châu.
Cuối mùa hè năm 1978 chúng tôi là lứa lưu học sinh đầu tiên được tới Liên Xô bằng máy bay, trước đây chỉ đi bằng tàu hỏa liên vận qua Bắc Kinh. Đối với nhiều người Việt Nam lúc bấy giờ, nhất là những người lính sau mấy năm chỉ sống ở núi rừng, Moscow thực sự là thiên đường.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Dưới thời Pháp thuộc, những năm đầu thế kỷ XX, để ra được một tờ báo - mà lại báo tiếng Việt do người Việt quản lý tại Kinh đô Huế quả thực nhiêu khê và vô cùng khó khăn, phức tạp.
ĐẶNG NHẬT MINH
Tôi vẫn còn nhớ đinh ninh cảnh quay đầu tiên của phim Cô gái trên sông vào tháng 10 năm 1987 là cảnh Liên, nhà báo nữ (do Hà Xuyên đóng) đến bệnh viện Huế tìm gặp Nguyệt (do Minh Châu đóng).
THÁI KIM LAN
Con đường ấy, từ dốc cầu Gia Hội đổ xuống, dọc theo con sông nhánh trước kia còn gọi là sông Đông Ba, Hàng Đường, rồi Bạch Đằng, lấy tên dòng sông chảy qua chùa Diệu Đế, qua cầu Đồng Ba, về Bao Vinh, ngã Ba Sình, con đường mang nhiều vẻ lạ, nó mang phố về biển khơi và chuyên chở tứ xứ về kinh thành, vốn là phố cổ một thời với những căn nhà gỗ kiến trúc thuần Huế, nơi những gia đình thượng lưu, quý tộc định cư một thời quan quan thư cưu…
DƯƠNG PHƯỚC THU
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, nhận chỉ thị của Hồ Chủ tịch, đại diện Ủy ban Nhân dân lâm thời Thừa Thiên và Ủy ban Nhân dân Trung Bộ đóng tại Huế đã đến mời cụ Huỳnh Thúc Kháng, một tiến sĩ Nho học yêu nước, một nhà báo nổi tiếng, một người không đảng phái ra Hà Nội gặp cụ Hồ.
HƯƠNG CẦN
Vài năm lại đây, báo chí thường nhắc đến ông hai lúa Bùi Hiển (Thủ Dầu Một, Bình Dương) tự chế thành công chiếc máy bay trực thăng vào năm 2012, ông làm chiếc thứ hai vào năm 2014.
VŨ HẢO
Tháng Tám năm 1945 đã trở thành mốc son chói lọi, vẻ vang trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Cách mạng tháng Tám thành công đã phá tan xiềng xích của thực dân, phát xít, lật đổ chế độ phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Kỷ niệm 100 năm Trường Đồng Khánh
BÙI KIM CHI