Ký ức không đủ sức nuôi hết những tháng ngày sắp đến nhưng đủ để giữ tâm hồn không bị phai nhạt khi phải lìa xa nơi cố quận. Không hiểu bằng cách gì mà dù ở đâu, người xứ này một khi đã nhận ra nhau dù cùng trời cuối đất đều tìm cách mà gần gụi nhau trong mỗi nết ăn nết ở.
Những năm gần đây mỗi cuối mùa đông người ta thường thấy nhiều đoàn người lủ khủ dắt nhau về từ muôn nẻo. Không cần hỏi, chỉ cần ngó nhân dạng là đủ biết từ phương xa về lại. Mà người về cũng nhiều kiểu trạng lắm. Có hôm qua chỗ phố mới sạch tinh tươm, thấy rồng rắn một đoàn già trẻ lớn bé ẵm nhau rổn rảng cười nói trong nhà hàng. Có đứa bé khóc ré lên khi nhìn thấy con nhện bò qua bàn. Có giọng người cha lớn tiếng chê trách nhân viên nhà hàng không khéo dọn dẹp để mất vệ sinh. Không can cớ chi tới mình mà sao nghe lòng chạnh buồn. Chạnh nhớ thuở xưa con nhện béo mẫm kia phải chi vào tay mẹ mình, thể nào cũng thành món thuốc trị chứng “dấm đài” của con em út. Giờ văn minh thì khác lắm rồi. Dù khoảnh khắc ra đi của người cha kia chắc chưa phai nhòa trong ký ức.
Ra phố cuối năm ghé vách tường bám đầy rêu kêu một cốc cà phê vỉa hè, bắt gặp kề cạnh mình một người đàn ông già cũ kỹ. Nhìn cách phục sức biết không phải ở đây nhưng đôi mắt đăm đắm nhìn ra lại chứa đựng cả trời kỷ niệm. Hỏi han vài câu mới hé lộ, dưới giàn hoa giấy phía bên kia đường một thời xưa cũ có bóng hình người con gái ông yêu. Dễ đến bốn mươi năm, hơn một thế hệ đời người đã qua, mà người con gái ấy vẫn còn xanh tươi trong mắt nhìn người cũ. Ông về phố mới hôm qua sau chuyến bay trùng dương ngại ngùng.
Ký ức của những người thế hệ trước ra đi vẫn còn nhớ như in vài bến đò bên dòng sông hò hẹn. Chỗ đó giờ hết dấu vết rồi, vậy mà làm sao khi đứng lại dáng cũ cứ như vẫn đi về trong sương. Câu thơ ai xưa viết cho Kh. “Ta đưa em qua đò tháng Chạp/ chiều nay hoa trắng rụng tơi bời…” hình như đóng đinh vào nơi này, để mãi mãi vẫn còn một bến đò tình im lặng tận lòng người trong cuộc.
Cuối năm mưa nắng đỏng đảnh chán chê rồi sau đó Huế thật sự trở lại với mình.
Mùa đông, sương giăng mắc mơ hồ. Lạnh lãng đãng. Mưa nhỏ nối dây thành dòng thành sợi miên man. Qua phố loanh quanh lại nhớ con đường ngập thơ trên hai dãy long não xanh um có bài thánh ca vô cùng dắt tình lên Phủ Cam một chiều nào không rõ. Không hiểu sao đi trên đường đó, lòng lại nghĩ về hai người bạn già cỗi mỗi cuối năm lại lặn lội từ xứ sở sương mù nơi nao về đây chỉ để ngắm nắng chạy dọc hai hàng long não. Ngồi im lặng nhìn xuống con phố hiền hòa. Nhìn những vết tích còn lưu dấu trên bức vách ơ hờ. Nhìn đôi mắt người ở ngó chốn xa xăm. Nhìn những vệt nắng chạy long lanh dưới tán lá xanh um. Nghe đôi ba con chim sẻ ríu rít ngoài khung cửa màu xanh.
Cũng đã một vài lần vào ngày cuối năm tôi ghé lại ngôi nhà nhỏ màu xanh có một người nằm bệnh và ngồi một góc nhỏ, giở vài trang sách lục lọi đâu đó dưới tận cùng cái kệ. Bao giờ cũng vậy. Một đĩa bánh nhỏ trước mặt. Một ly gì đấy, cà phê nâu sóng sánh, hoặc ly vang nồng nồng, hoặc tách trà nghi ngút khói ủ vừa đủ ấm nóng bàn tay. Thảng hoặc một ly rượu nặng bao giờ cũng rót vừa khéo khỏi chạm đáy cốc. Những ngày tháng đó, người nằm im lặng trên giường, đôi mắt không mở không khép, mặt người không buồn không vui. Chỉ một người phụ nữ già, một người thiếu phụ trung niên lui tới ríu rít như đôi chim. Những khi như thế, mới chợt nhận ra yên bình không hề phải mất công tìm kiếm. Yên bình chỉ đơn giản là một sự lặng im. Chỉ cần ngồi lặng lẽ đôi hồi rồi về. Khi ra đến cửa sẽ gặp những bức tranh của nhiều người khác nằm im ắng trên tường. Nhìn vào, thấy lòng rộn lên nhiều khao khát, những khao thát thèm thuồng về một gia tài hào sảng của những người đã từng lưu lại nơi đây. Thấy yêu những huyền thoại thêu dệt thành những câu chuyện cổ nơi này. Con đường vì thế trở thành lối dẫn vào Tuyệt tình cốc. Nơi cất giấu thứ Độc tình hoa quyến rũ không ngừng kia. Nơi ở đó có thể hiệp khách hành buông đao rớt kiếm, thì đao kiếm vẫn vô tình sát thương nhiều tâm hồn chị em nhi nữ thường tình.
Nên khi nghe trời đất trả lại cho Huế những tâm tính mềm mại như một ngày cuối năm, là lúc nghe lại những khúc hát liêu trai dành cho xứ sương mù màu tím, đọc lại những trang văn tình tự để lắng lại trái tim mình. Xứ này thời gian dường như trôi chậm. Không hối hả ngược xuôi mà thong dong đài đệ như tính cách Mệ muôn thời. Ngay cả nhớ cũng chầm chậm, như một ngày cuối năm về lại, vẫn thấy trong yêu thương con phố quá đỗi dịu dàng…
T.H
(TCSH432/02-2024)
CHẾ LAN VIÊN
Hồi ký về Đoàn Nghệ thuật Xây dựng (Huế 1946)
NGUYỄN QUANG HÀ
(Bút ký)
Ông Lê nguyên giám đốc sở Văn hoá Bình Trị Thiên, một lần về Thủy Dương lấy tài liệu viết tuyên truyền cho vụ lúa mùa, đã cụng đầu với ông bí thư xã.
TẠ QUANG BỬU
(Hồi ký)
Tôi đã học ở trường Quốc Học bốn năm từ năm 1922 đến 1926, cách đây đúng 60 năm.
TRỊNH BỬU HOÀI
Đất trời đang mặc chiếc áo mới cho trần gian. Con người cũng thay chiếc áo mới cho mình. Chiếc áo khoác trên đôi vai sau một năm oằn gánh công việc. Chiếc áo phủ lên tâm hồn ít nhiều khói bụi thế nhân.
NHỤY NGUYÊN
Một câu trong Kinh Cựu ước: Khởi thủy là lời. Tôi không dám khoác thêm bộ cánh mới, mà chỉ muốn tìm cho nó một mỹ từ gần gũi: Khởi thủy là mùa Xuân.
ĐÔNG HƯƠNG
Trí nhớ tôi tự dưng quay trở về với tuổi thơ, tuổi ba mẹ vừa cho đi học. Ờ! Lâu quá rồi, cái Tết đối với tôi không còn ý nghĩa gì nữa, trí nhớ lơ mơ trở lại khoảng đời thơ ấu, có lẽ đẹp nhất trong đời của mỗi con người của chúng ta.
TRẦN HỮU LỤC (Tùy bút)
Tháng Chạp ở quê tôi là tháng của hoa mai. Dường như màu của hoàng mai tươi thắm khắp mọi nẻo đường. Những chậu mai kiểng, vườn mai chùa, vườn mai nhà, đường phố mai, công viên mai, những thung lũng mai núi… đến thì lại nở đẹp một màu vàng mỏng nhẹ trong sương sớm.
DƯƠNG PHƯỚC THU (Bút ký lịch sử)
Nhiều năm men theo dấu chân của nàng Huyền Trân, công chúa nhà Trần mở đất Ô, Lý, hễ có dịp là tôi lại hành hương đất Bắc. Viếng đền thờ các vua nhà Trần ở làng Tức Mặc - nơi ấy nay thuộc phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định.
HÀ THÚC HOAN
Những ai đã từng là học sinh trường Quốc Học - Huế đều có Một thời Quốc Học(1). Thời Quốc Học của tác giả bài viết này là ba năm học tập ở các lớp đệ tam (lớp 10), đệ nhị (lớp 11) và đệ nhất (lớp 12), từ năm 1956 đến năm 1959.
TRẦN HUY MINH PHƯƠNG (Tùy bút)
Thoáng một cái, xài hết ba trăm sáu mươi lăm ngày mà hổng biết. Bao dự tính giằng co rồi dang dở, chưa kịp nghĩ thấu, chưa xiết làm xong, phân vân nhiều nốt lặng, yêu người chưa sâu nặng, nợ người chưa trả xong… ngày giũ vội qua đi. Ngẩn ngơ, mùa về!
THIẾU HOA Hắn! Một vị khách không mời mà đến. Hắn đến viếng nhà tôi trong một đêm mưa to gió lớn. Cả nhà ai cũng biết sự có mặt của Hắn. Đêm đầu tiên cứ nghĩ Hắn chỉ trốn mưa tạm thời rồi hôm sau sẽ đi. Nhưng đến nay đã qua một mùa xuân, Hắn vẫn còn ung dung tự tại ở trong nhà, lại ở đúng trong phòng của tôi như một thành viên chính thức trong gia đình.
PHAN QUANG Trích hồi ký ... Đến thị xã Sơn La chiều hôm trước, sáng hôm sau trong khi chờ đến giờ sang làm việc với Khu ủy Tây Bắc, đồng chí Nguyễn Chí Thanh - mà các đồng chí gần gũi đều quen gọi bằng tên thân mật: anh Thao - cho mời chủ nhiệm nhà khách của khu tới.
VÂN NGUYỄN Tùy bút “Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa...” (Trịnh Công Sơn)
PHAN THỊ THU QUỲ Ba tôi - liệt sĩ Phan Tấn Huyên, Nguyên Chánh Văn phòng Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Thừa Thiên - thường dặn tôi mấy điều: dù khó khăn đến mấy cũng không được ngừng nghỉ phấn đấu học hành bởi tri thức là sức mạnh; dù như thế nào đi nữa cũng phải giữ cho được bản sắc văn hóa Huế rất đỗi tự hào của mình...
TẤN HOÀI Một khung trời mây Một dải gương lung linh cuộn quanh hoàng thành cổ kính. Trầm mặc và ưu tư. Tưởng chừng như thế!...
XUÂN HOÀNG Tôi được Hội Nhà văn Việt Nam cử đi thăm hai nước Ru-ma-ni và Bun-ga-ri đúng vào những ngày đầu xuân Mậu Thân, sôi động.
HỮU THU & BẢO HÂN Ký Đến bây giờ nhiều người vẫn chưa quên hình ảnh hãi hùng mà cơn bão mang tên Cecil tàn phá vào cuối tháng 10 của năm 1985 ở miệt phá Tam Giang của tỉnh Thừa Thiên-Huế.
PHẠM THỊ CÚC Thầy dạy lớp Nhì Thầy dạy lớp Nhì tên Thanh. Người thầy roi roi, hơi thấp và nhỏ con. Bù lại, thầy rất nhanh nhẹn và vui vẻ, hoạt bát, nụ cười luôn nở trên môi.
VĨNH NGUYÊN Biết sở Ngoại thương có đến năm ông vua, tôi tặc lưỡi - chà, thời buổi này tiếng vua quan nghe có vẻ mai mỉa làm sao ấy? Nhưng lên được ngôi vua đâu phải đơn giản? Dẫu vua ác, vua hiền, vua tài ba hay bất lực, vẫn là vua một thời và khối kẻ mong ước được "một ngày tựa mạn thuyền rồng"...
TRẦN THỊ HƯỜNG (*) Hồi Ký Mùa thu năm 1922 tôi rời thị xã Quảng Ngãi hòa trong dòng học sinh của nhiều miền trong đất nước về học tại trường nữ sinh Đồng Khánh (Huế).