Những lời nói thẳng

14:48 07/09/2020

Chúng ta đang trong giai đoạn “dầu sôi lửa bỏng” khi dịch bệnh hoành hành, gây nên vô số hệ lụy trong đời sống. Trên khắp thế giới và cả trong nước, các mặt kinh tế - xã hội đều ngổn ngang những vấn đề.

Tại sao chúng ta cần những lời nói thẳng?
 
Những ngày này, trên khắp các báo đài, thậm chí ngay trong những câu chuyện trong quán cafe mỗi sáng, chúng ta vẫn thường nghe những câu động viên: “Việt Nam đang trong quá trình phục hồi kinh tế rất tốt, nhờ vào việc chống dịch vô cùng hiệu quả...”. Nhưng hỏi “tốt như thế nào” thì khó có thể trả lời thỏa đáng, vì kinh tế phải thể hiện bằng các con số, còn chống dịch thì có thể thấy qua việc ngăn chặn hiệu quả số bệnh nhân không để lây lan rộng.
 
Theo báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động vừa qua cho thấy, hiện nay có đến hơn 30 triệu người thất nghiệp do tác động của đại dịch. Riêng về hiệu quả kinh tế, theo Báo cáo cập nhật đánh giá tác động của đại dịch Covid-19 đối với các ngành kinh tế Việt Nam do TS.Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV công bố: “Đối với Việt Nam, sau 6 tháng đầu năm 2020, có thể thấy ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế - xã hội Việt Nam đã rất rõ nét, nghiêm trọng hơn rất nhiều so với các dự báo trước đây”. Có nhìn rõ vấn đề thì mới có những chiến lược, biện pháp, đối sách vĩ mô và vi mô để khắc phục. Kinh tế không thể là câu chuyện an ủi hay ru ngủ nhau được!
 
Một ví dụ khác, có quan chức Liên đoàn Bóng đá phát biểu rằng: “Liên đoàn kiên quyết xử lý những phát ngôn mang tính nhắm vào liên đoàn và làm xấu hình ảnh của giải, kể cả đối với Huấn luyện viên (HLV) trưởng đội tuyển Việt Nam, HLV có quyền bình luận về chuyên môn nhưng không được bình luận về chính sách của Liên đoàn Bóng đá Việt Nam”. Ngay sau phát ngôn này, Chủ tịch Hoàng Anh Gia Lai - ông Đoàn Nguyên Đức đã có ý kiến phản ứng: “Liên đoàn nói vậy là sai hoàn toàn. Nói như vậy là họ không muốn nghe góp ý từ những người có tâm với bóng đá Việt Nam đấy. Đòi kỷ luật như vậy, họ còn muốn nghe không? Nếu Liên đoàn sai, chúng ta phải ý kiến lại chứ? Bóng đá là thuộc về công chúng, thuộc về xã hội”.
 
Trong một bài viết trước đây trên báo chí, chúng tôi từng nêu lên vấn đề và luận bàn về mục đích của chính trị. Trong đó căn bản học thuyết lãnh đạo ngay trong thời phong kiến là người lãnh đạo hay “quân tử” khi cầm quyền phải có kỷ luật, nên cai trị dân chúng của mình bằng chính tấm gương của mình, đối xử với họ bằng tình thương và sự quan tâm. Niềm tin chính trị gắn chặt với luân thường đạo lý và đạo đức cá nhân. Họ phải chấp nhận sự phán xét của nhân dân, phải lắng nghe những lời nói thẳng, nói thật. Trong cuốn sách Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Lại nói: nếu phê bình khuyết điểm của mình, của đồng chí mình, của Đảng và Chính phủ, thì địch sẽ lợi dụng mà công kích ta.
 
Nói vậy là lầm to. Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không chết ‘cũng la lết quả dưa’”.
 
Nghĩ về Chiếu cầu lời nói thẳng của triều Tây Sơn
 
Lần giở lại lịch sử dân tộc, tổ tiên ta đặc biệt là các bậc kiệt hiệt chưa bao giờ sợ lời nói thẳng, chưa bao giờ ngại “phê bình và tự phê bình”, đó là một truyền thống tốt đẹp vậy.
 
Chiếu cầu lời nói thẳng do Ngô Thì Nhậm thừa mệnh vua chấp bút, sau khi Thái sư Bùi Đắc Tuyên bị xử tử bởi tội chuyên quyền, lộng hành, gây quá nhiều tổn thất về thanh danh, uy tín cho triều đại Tây Sơn. Đọc Chiếu cầu lời nói thẳng, chúng ta cảm động khi từ đầu đến cuối, nhà vua bằng một thái độ rất mực khiêm nhường, trình bày cặn kẽ mọi thực trạng xã hội cho dân chúng biết, không hề che đậy, giấu giếm: “…Vận nước gặp lúc gian nan, họ ngoại thích trộm quyền cương, điềm trời luôn hiện, việc binh hỏa không lúc nào ngơi, người hành dịch có khi bị chìm đắm dưới sóng gió, có khi mắc vào chốn gươm đao, nào là phải vận tải đưa lương, nào là bị tham quan đục khoét…Than ôi, chơi bời là cái điều nguy ngập, khoe khoang là cái cớ diệt vong”.
 
Đáng tôn trọng hơn nữa khi nhà vua bày tỏ sự lo sợ của bản thân trước tình cảnh: “Nay quốc gia đất rộng người nhiều, thực là nhờ công ơn của tiên hoàng đế (chỉ vua Quang Trung) mở mang khi trước. Nhưng đất rộng mà lắm chỗ bỏ hoang, dân nhiều mà nhiều nơi ta thán, trẫm run rẩy sợ hãi như sắp sa vào vực thẳm. Từ xưa công sáng nghiệp đã khó mà sự thủ thành lại càng khó hơn. Trẫm cùng các đại thần thân cận toan tính lo lường nhưng chưa biết thế nào là phải”. Trước thực trạng xã hội, nhà vua kết luận: “Tóm lại, cái tệ trễ biếng là do cái lòng tự mãn tự túc sinh ra, tích tụ chất chứa đã lâu, không sao kể xiết”. Xin hiểu rằng chữ “trễ biếng” mà nhà vua dùng ở đây với hàm nghĩa chỉ trích rất nặng nề: chỉ lo hưởng lạc, không lo việc dân việc nước, là thứ tư tưởng kiêu căng ngạo mạn đến mức đáng sợ.
 
Nhà vua “mong rằng thần dân trong ngoài khuyên bảo để cho trẫm được đức hạnh tốt” và nhằm “cùng các đại thần tính toán tìm ra con đường đúng mà vẫn chưa thấy con đường nào là thích hợp”. Nói cách khác, tinh thần cơ bản của Chiếu cầu lời nói thẳng là lấy dân làm gốc: “Hỡi những kẻ bầy tôi và dân chúng, các ngươi hãy dâng thư dán kín, nói hết, đừng giấu giếm. Trong kinh thì nộp cho triều đình, ở ngoài thì nộp cho các quan trấn để chuyển đệ. Trẫm sẵn lòng nghe theo lời nói phải để thi hành ra chính sự, mong đổi được tệ tục, làm được việc hay”.
 
Ngược dòng lịch sử về trước đó, khi vua Trần Dụ Tông lên ngôi, triều chính đất nước rối ren. Trong nội, vua ham mê tửu sắc, nóng nảy, nông cạn để mặc cho quyền thần liên kết hoành hành; bên ngoài, giặc giã dấy lên cướp bóc, sinh linh đồ thán. Thấy chính sự bê bối, nhà giáo Chu Văn An bất bình dâng Thất trảm sớ, xin chém 7 kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua dung túng. Dù bị vua Dụ Tông phớt lờ, tấu sớ của vị Tư nghiệp Trường Quốc Tử Giám đã gây chấn động triều đình cũng như còn lưu lại mãi với sử xanh.
 
Vẫn biết “trung ngôn” thường “nghịch nhĩ”, nhưng nếu không có những lời nói thẳng nói thật, không dám nhìn nhận cái thẳng cái thật, thì chắc chắn, dù là một cá nhân, một tổ chức hay một quốc gia đều không thể phát triển, tiến bộ một cách đích thực.
 
Chánh ngữ trong đạo Phật
 
Đức Phật xếp Chánh ngữ vào vị trí thứ ba trong Bát Chánh đạo, sau Chánh kiến và Chánh tư duy. Chánh ngữ thuộc khẩu nghiệp. Trong ba nghiệp của con người, khẩu nghiệp khó kiểm soát hơn thân nghiệp và ý nghiệp, bởi lời nói xuất phát từ những trạng thái tâm lý thường xuyên biến động theo thất tình.
 
Cũng như ý nghiệp và thân nghiệp, khẩu nghiệp có thiện, ác và không thiện, không ác (trung tính). Ái ngữ là những lời nhẹ nhàng, êm ái, hòa nhã… Vọng ngữ là những lời khiêu khích, đâm thọc, tráo trở, thêu dệt, chưa kể ác ngữ là ngôn từ thù hận… Ở đây chúng ta đang bàn về trung ngôn, thiện ngữ, những lời nói thẳng, nói thật với thiện ý.
 
Trong bài pháp cho năm anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển, Đức Phật đã nói về Chánh ngữ như sau: “Chỉ được nói thật, không nên bịa đặt, không nên nói xấu người khác, phải kiềm chế sự vu khống, không nên buông những lời giận dữ và thóa mạ đến người khác, nên nói tốt và nhã nhặn với mọi người, không nên chìm đắm vào những chuyện gẫu vu vơ, ngu ngốc, mà chỉ nên nói những gì hợp lý và đúng vào vấn đề”. Tóm lại, Chánh ngữ là một trong tám tia sáng nhiệm mầu chiếu kiến đến tận cùng thể tánh, khai phóng năng lực nội tại, cho chúng ta thấu hiểu giá trị đích thực của chân lý và mục đích tối hậu của cuộc sống ngay thời hiện tại là thoát ly khổ não, sanh tử, luân hồi. Trong mười hạnh của Bồ-tát, Chánh ngữ chiếm đến bốn hạnh: 1.Nói lời chân thật. Không nói dối; 2.Không nói lời thêu dệt, vẽ vời; 3.Không nói lời điên đảo, hai chiều; 4.Không nói lời ác độc.
 
Lời nói có vai trò quan trọng trong cuộc sống, là phương tiện giao tiếp, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm; bày tỏ tư tưởng và tâm lý, tình cảm, xúc cảm của con người. Chúng ta đang cần những lời nói thẳng để nhìn ra những vấn đề cần khắc phục, hoạch định kế sách ứng phó. Những lời xu nịnh, mỹ từ không làm thay đổi cục diện mà còn làm chúng ta chủ quan, dễ phạm sai lầm, tự mãn… Có thể khẳng định, những lời nói thẳng trong thời đại nào cũng là những liều thuốc đắng nhưng cần thiết cho sự phát triển xã hội.


Theo Nguyên Cẩn - GNO

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Thừa Thiên Huế đang đứng trước cơ hội rất lớn để xây dựng Huế trở thành một đô thị lớn với đầy đủ tầm vóc, tính chất sánh ngang tầm với thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

  • Thời buổi internet thật tuyệt vời, nói vui theo “teen” kiểu “sát thủ đầu mưng mủ” thì quả là “tiện ích như cú hích”. Với nhà văn, tác phẩm viết ra xong không nhất thiết phải in thành sách, cứ post lên blog cũng có hàng nghìn hàng vạn bạn đọc truy cập, rồi cư dân mạng khắp nơi trên thế giới cập nhật thông tin, coppi, comment bày tỏ quan điểm, phô bày xúc cảm ngay, vui ra phết, chí tình ra phết.

  • Ngày nay, khi văn học không hoàn toàn bấu víu vào những đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì thế giới trong văn chương trở thành những thế giới ảo, dung chứa tất cả những lệch pha và ngụy tạo so với thế giới khách thể. Người sáng tạo cũng từ đó ý thức được sức mạnh trong việc cách tân bút pháp và thay đổi cảm quan trong thế giới chữ của mình.

  • NGUYỄN VĂN TOÀN

    Té ra, cái thời nhân dân lao động làm chủ xã hội đã… xưa rồi Diễm. Và rằng, ở thời điểm hiện nay, VIP đã là một phần tất yếu của cuộc sống. Và họ cũng được dân gian nhìn nhận là những ông vua “con” ở cõi nhân tình thế thái khi sở hữu đầy ắp bao cơ man đô la và vàng bạc.

  • Huế là thành phố sông ngòi chằng chịt, từ sông đến đầm phá và biển. Đặc biệt, sông Hương và hệ thống thủy đạo kinh thành Huế cũng như các cồn bao quanh kinh thành phần lớn là hình ảnh mang tính biểu tượng của Huế, là một trong những cảnh quan chính của thành phố. Một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sông nước và lịch sử thành phố có khả năng tạo ra một sản phẩm du lịch độc đáo cho Huế, mở ra nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cũng như cải thiện cuộc sống người dân dọc hai bên bờ sông.

  • Tri thức vốn dĩ là tài sản chung của nhân loại. Tri thức là cái kho học thuật vô giá mà mỗi con người cần được trau dồi để bảo đảm vai trò, chức năng của mình trong xã hội.

  • Việc đại biểu Đỗ Văn Đương (TP HCM) đề nghị Quốc hội nên có Luật Từ chức (17/11) khiến dư luận xã hội có những phản ứng trái ngược nhau trong mấy ngày trở lại đây.

  • Việt Nam đang đứng trước con đường có khá nhiều chông gai và nhiều thử thách. Hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới, Việt Nam cần nhiều sự đổi mới để tiếp tục phát triển.

  • Trong những năm gần đây, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã tạo nên sự trù phú cho nhiều làng quê Việt. Tuy nhiên, song hành với đó bản sắc văn hóa làng Việt đang bị mai một dần; nếu không có giải pháp gìn giữ thì những làng quê truyền thống, những nếp làng xưa sẽ chỉ còn trong ký ức.

  • I. Ba bước chuyển hệ hình trong văn học Việt Nam và vai trò của các nhà văn trẻ

  • SHO - Có cảm giác như xã hội đang mặc nhiên coi chuyện chạy điểm cho con em, chạy theo thành tích cho học trò lâu ngày đã thành thói quen khó chữa khiến người ta quên rằng lòng tự trọng, lòng nhân ái là cao hơn hết và cần có mặt hơn hết! Có phải người ta đã quên đi lòng tự trọng, lòng nhân ái cần có hay không? Tôi không bi quan đến mức nói rằng người ta đã quên nhưng quả thật không thể dửng dưng trước câu hỏi đó.

  • Bài viết này có thể gọi là sự nối tiếp bài " Các cây viết trẻ Việt liệu đã thua trên sân nhà? " cách đây không lâu của tôi. Tôi viết bài tiếp theo này là vì ở bài viết trước có nhiều ý kiến thảo luận của người đọc đã mở ra cho tôi những cách nhìn sâu rộng khác hơn về chủ đề đã nói trong bài viết trước.

  • LTS: Tình cờ trong lúc lang thang trên mạng, SHO đã đọc được bài viết này trong một blog. Thiết nghĩ đây cũng là vấn đề nảy sinh thực trạng đáng buồn giữa các nhà văn trẻ và các nhà xuất bản, SHO đăng tải để chúng ta cùng cận cảnh...

  • Tháng bảy về rồi, nơi quê nhà quê mẹ đã thu chưa? Nơi con ở bây giờ, gió đã chuyển mùa, để rồi chiều nay khi lang thang trên con đường xứ sở, con chợt thảng thốt nhận ra rằng chỉ còn vài ngày nữa thôi, mùa Vu lan sẽ lại về. Nhanh thật đó!

  • Với đặc thù của môn Lịch sử ở bậc THPT, những câu hỏi mang tính khái quát về tiến trình lịch sử sẽ có giá trị hơn nhiều so với những câu hỏi đi quá sâu vào tiểu tiết mà chúng ta vẫn gặp trong các đề thi Lịch sử hiện nay và kết quả thi nhiều khả năng sẽ tốt hơn.

  • Dễ ai quên câu hát: “Trời sinh voi trời không sinh cỏ, Thượng đế buồn Thượng đế bỏ đi”.

  • Lòng yêu nước vốn rất sâu sắc và mãnh liệt xét trên 2 bình diện xã hội gồm giai tầng lãnh đạo(người nắm quyền cai trị) và người dân (kẻ bị trị) đã có lúc bị mai một và chỉ còn như cái bóng khi dân bị bóc lột, hà hiếp còn vua, quan chỉ chăm chăm cướp đoạt, làm giàu, hưởng lạc và chia bè kéo cánh.

  • Có những tình huống mà im lặng không giúp ta tránh né được hiểm nguy, ngược lại chỉ làm tăng mối họa vì khiến người khác lầm tưởng im lặng là bạc nhược.

  • Bán bà con xa mua láng giềng gần, điều đó đúng trong trường hợp người láng giềng có đủ nhân cách và mức độ tự tin để chúng ta làm được điều đó.

  • Báo chí trong tháng 5.2011 vừa qua trong rất nhiều thông tin đời sống xã hội, có nêu những vấn đề nổi cộm khiến cho nhiều người cầm bút phải suy nghĩ.