LÊ SANG
Phùng Sơn là một cán bộ Đoàn Kon Tum, đồng thời là nhà nghiên cứu văn hoá dân gian. Anh từng là gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu do Trung ương Đoàn bầu chọn lần đầu tiên (1996), và hiện nay vẫn miệt mài, cần mẫn với công việc sưu tầm, nghiên cứu những giá trị văn hóa dân gian Tây Nguyên bằng niềm đam mê mãnh liệt.
Tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế năm 1984, là người con của xứ Huế thơ mộng, nhưng anh lại tình nguyện lên Tây Nguyên. Với chuyên môn được đào tạo, anh được phân công làm công tác thiêt kế mỹ thuật cho Đoàn Nghệ thuật Đan San, Gia Lai - Kon Tum. Ở vùng đất mới, con người mới, vốn liếng hiểu biết về văn nghệ dân gian còn lắm mơ hồ, anh đã rất nỗ lực sớm được hòa nhập để hoàn thành nhiệm vụ.
Trong một dịp, Phùng Sơn được Sở Văn hóa tỉnh Gia Lai - Kon Tum cử đi tháp tùng Đoàn nghiên cứu của Viện Văn hóa Dân gian lên công tác tại vùng Đăk Glây của tỉnh. GS.TS Tô Ngọc Thanh khi đó là Trưởng đoàn nghiên cứu nhận thấy sự sáng tạo, năng nổ trong công việc của Phùng Sơn nên đã giao việc cần kíp cho anh. Ngay buổi đầu, ông đưa cho anh một đống đồ thổ cẩm, bảo phải vẽ và ghi chép lại hết trong đêm vì ngày mai đoàn phải di chuyển địa điểm. Đêm đó, Phùng Sơn thức bên đèn dầu, làm một mạch đến sáng thì công việc hoàn tất. Tiếp nhận thành quả của Phùng Sơn, GS.Tô Ngọc Thanh xúc động: “Cậu rất chịu khó và có khả năng nghiên cứu”.
Sau chuyến công tác trên, Phùng Sơn thu xếp công việc để có thời gian nghiên cứu về văn hoá của người dân vùng cao. Anh đã lặn lội khắp các vùng sơn cước của Gia Lai - Kon Tum để tìm hiểu những phong tục tập quán, cách lao động, ăn uống, vui chơi của người dân tộc. Phùng Sơn dành thời gian để “ba cùng” với đồng bào trong mỗi chuyến đi. Anh vào sâu trong rừng thẳm, đến xã Mô Ray (Sa Thầy, Kon Tum) sống với tộc người Rơ Mâm khi đó chỉ còn trên dưới 30 hộ nhằm tìm hiểu những nét kiến trúc đặc trưng về nhà ở của họ giữa thiên nhiên hoang dã. Lần khác, anh đi bộ băng rừng đến vùng sát biên giới Việt-Lào, tới xã Bờ Y (Ngọc Hồi, Kon Tum) để nghe người Bờ Râu kể về tập tục đeo vòng cổ chân và đeo bông tai được làm từ ngà voi. Không ít lần, Phùng Sơn lặn lội đến với đồng bào các dân tộc Bahnar, Giẻ Triêng, Gia Rai… để tham dự lễ bỏ mả, lễ mừng lúa mới. Những chuyến đi ấy đối với anh có cả nỗi vất vả lẫn sự ngọt ngào, như là chuyện “ngậm ngải tìm trầm”. Nhiều khi, để đến được nơi đã rất vất vả, Phùng Sơn lại không được vào làng vì đã vi phạm những tập tục mà anh không hề hay biết. Hoặc có lần Phùng Sơn suýt mất mạng vì bị nhầm tưởng là “ma lai”... Qua những lần “ngậm ngải” đó, anh đã có được vài chục trang viết tay, hàng trăm hình vẽ minh họa về trang phục, phương tiện sản xuất, dụng cụ âm nhạc và mô típ nhà ở của đồng bào các dân tộc. Đánh giá về những tư liệu này, nhà dân tộc học Từ Chi nhận xét: “Tôi đã thu nhận được nhiều điều sau khi xem bản thảo của họa sĩ Phùng Sơn”.
Năm 1991, sau khi tách tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Phùng Sơn về công tác tại Tỉnh Đoàn Kon Tum, nhưng vẫn dành thời gian nghiên cứu văn hóa dân gian. Năm 1994, anh bảo vệ thành công đề tài “Mỹ thuật dân gian các dân tộc tỉnh Kon Tum”, công trình sau đó được Bộ Khoa học & Công nghệ cấp giấy chứng nhận, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cấp Huy chương và bằng Lao động sáng tạo. Năm 1996, Phùng Sơn được Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tôn vinh là một trong mười gương mặt trẻ tiêu biểu của năm, rồi được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen về thành tích sưu tầm văn hóa dân tộc.
Không thể nói công việc sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian là nghề tay trái của anh bởi chúng như là sự nghiệp chính, đem lại những thành tựu và cuốn hút cả cuộc đời anh. Anh luôn tâm niệm: đó là công việc khó, cần nhiều thời gian, sự tâm huyết. Anh luôn tranh thủ mọi thời gian tổ chức những chuyến đi điền dã, sưu tầm. Điểm đáng chú ý trong nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm mỹ thuật dân gian của anh được viết, vẽ hoàn toàn bằng tay một cách nắn nót, các nội dung được chia thành từng chương, mục rõ ràng và trình bày một cách rất khoa học, có chú giải kèm theo.
Họa sĩ Phùng Sơn còn sưu tầm, chi chép các câu chuyện cổ. Sau những lần đi thực tế về, anh lại cặm cụi chỉnh sửa, bổ sung những tư liệu mình tu thập được. Thỉnh thoảng, bạn bè lại thấy anh vui vẻ khoe tập bản thảo mới được đánh máy và in sạch sẽ. Tư liệu về truyện cổ, truyền thuyết của các dân tộc Bahnar, Rơ Mâm, Xê Đăng, Jarai, Striêng… có nguy cơ mai một nay được Phùng Sơn lưu lại cẩn thận. Đó là các chuyện như: Đàn T’rưng, Chàng nghèo, Bộ tro thần sét, Chàng Ề, Đăm Hin, Ba anh em mồ côi, Dòng sông Đăk Bla, Truyền thuyết Chư Moray… Những câu chuyện này thường gắn với tập tục, thói quen của làng, hoặc lý giải về sự ra đời của các địa danh, những loài vật hiện diện trong đời sống hằng ngày của từng dân tộc. Đó là truyền thuyết về ngọn núi Chư Mo Ray và tình nghĩa chị em Blai và Kpalang; là sự tích về loài về hang cọp và loài chim Chơ Vơ; là câu chuyện về dòng sông Đăk Bla chảy ngược cùng sự ra đời của hai làng Kon Tum Kơ Păng và Kon Tum Kơ Nâm (thị xã Kon Tum)… Và những câu chuyện cổ sưu tầm của anh được dịch bằng hai thứ tiếng; tiếng Kinh và tiếng của người dân tộc thiểu số Kon Tum; được Phùng Sơn in thành cuốn “Truyền thuyết truyện cổ các dân tộc thiểu số tỉnh Kon Tum”. Năm 2012, tác phẩm này được Hội đồng thẩm định tác phẩm (Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam) chọn xuất bản theo Chương trình công bố tài sản văn hóa các dân tộc do Chính phủ tài trợ.
Mới đây, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam đã xuất bản cuốn sách: “Mỹ thuật dân gian và truyền thuyết, truyện cổ của đồng bào các dân tộc thiểu số Kon Tum” của tác giả Phùng Sơn, ghi nhận cho sự lao động không ngừng nghỉ, hăng say miệt mài của anh trong việc bảo tồn những giá trị văn hóa dân gian; định hướng cho bất cứ ai muốn có ý nhiệm khởi đầu về các tộc Thượng (di bút cụ Từ Chi).
Phùng Sơn vừa nhận được thông báo nghỉ hưu vào đầu năm 2017. Là người giàu tâm huyết với những giá trị văn hóa dân gian, anh vẫn sẽ cất những bước chân không mỏi sẽ thực hiện nhiều chuyến đi để tìm hiểu, sưu tầm những giá trị văn hóa dân gian. Trong cuộc sống hiện nay, nhiều giá trị về văn hóa dân gian đã bị mai một và lãng quên; tôi mong muốn góp phần nhỏ bé để gìn giữ, bảo tồn những giá trị văn hóa đặc sắc của quê hương. Đó cũng chính là niềm đam mê mãnh liệt của tôi” - Anh nói.
L.S
(SHSDB23/12-2016)
LÊ TRUNG VŨ
Con người luôn suy tư về bản thân. Tồn tại hay không tồn tại. Ý nghĩa của sự sống. Khái niệm cái chết. Thế giới thực tại đang tiến triển; và có hay không, thế giới vĩnh hằng? Mối quan hệ giữa chúng. Con người sinh học và con người văn hóa trong mối quan hệ với vũ trụ...
TRIỀU NGUYÊN
TRẦN HOÀNG
Trong vòng hơn 10 năm gần đây, ở Thừa Thiên Huế, anh Tôn Thất Bình (biệt hiệu là Nguyễn Trùng Dương) thuộc một trong số những nhà sưu tầm, nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian gặt hái được nhiều thành công nhất.
TÔ NGỌC THANH
Nằm trong lĩnh vực văn hoá dân gian, Hát Ru và sinh hoạt Hát Ru là một hiện tượng văn hoá xã hội đa nghĩa, đa dạng mà trong đó các yếu tố cấu thành có mối quan hệ nhân quả, khăng khít.
TRIỀU NGUYÊN
NGUYỄN DƯ
Sách báo ngày xưa có nhiều bài viết về tranh Tết, tranh Gà, tranh Lợn. Ai cũng khen tranh đẹp. Không có gì phải thắc mắc.
NGUYỄN DƯ
Mời các bạn cùng lật sách xem mấy cái đinh, cái đanh được vua biết mặt, chúa biết tên.
NGUYỄN DƯ
Họ hàng nhà chó thật đông đúc. Khắp năm châu bốn bể chỗ nào cũng có chó. Chó kiểng, chó săn, chó chân dài, chó tí hon. Chó Bắc Kinh, chó Chihuahua, chó Phú Quốc…
Từ lâu, theo phong tục tập quán, Tết Hàn thực đã đi vào tiềm thức của mỗi người dân Việt, dù có đi xa tới đâu thì vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hằng năm, những người con xa xứ vẫn cố gắng trở về đoàn tụ với gia đình. Cũng vào những ngày này, người Việt lại làm mâm cúng mời tổ tiên về ăn Tết Hàn thực.
PHẠM XUÂN DŨNG
Đã từ lâu lắm rồi chuyện trạng Vĩnh Hoàng đã thành món ăn tinh thần - văn hóa không thể hiếu được trong những dịp hội thi, hội diễn văn nghệ quần chúng, trong sinh hoạt cộng đồng của huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) cũng như trong cuộc sống hàng ngày.
Gà, từ biểu tượng văn hóa đến biểu trưng ngôn ngữ và văn học
NGUYỄN VĂN HÙNG
NGUYỄN DƯ
Ông bạn mới đi chơi Việt Nam về, hớn hở khoe:
- Lần này ghé Huế, được ăn cơm vua. Vui quá! Ông ăn cơm vua chưa?
- Thuở bé, ăn đến phát ngấy rồi! Cơm vua thời đổi mới thì chưa ăn.
Ông bạn cười tôi lẩm cẩm, lẫn lộn ngày xưa với ngày nay!
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
So với các thể loại văn học dân gian khác của người Tà Ôi thì đồng dao đứng ở vị trí khiêm tốn, nghĩa là từ trước đến nay chưa có ai sưu tầm, giới thiệu và khảo cứu thấu đáo. Điều này gây ra một sự thiệt thòi lớn cho vốn di sản văn hóa tinh thần vốn rất phong phú của người Tà Ôi.
HUỲNH HỮU ỦY
Suốt trên dải đất dài dọc miền Trung Trung bộ, từ Bình Trị Thiên qua Nam Ngãi và vào đến Bình Định, Phú Yên, cứ vào những ngày Tết đến lại xuất hiện trong sinh hoạt giải trí dân giã một trò chơi bài bạc mang nặng tính chất đình đám, hội hè, văn nghệ: trò chơi bài chòi, về mặt hình thức, tương tự như lối tổ tôm điếm ở miền Bắc.
NGUYỄN DƯ
Ngày nay hầu như nước nào cũng biết tổ chức lễ tuyên thệ. Giơ tay, mở miệng thề. Tổng thống thề lèo lái con thuyền quốc gia tới bến vinh quang. Bác sĩ thề “cứu nhân độ thế”, coi tiền bạc là chuyện nhỏ. Đồng hội đồng thuyền thề che chở đùm bọc nhau…
Đức Thánh Trần - Trần Hưng Đạo là minh chứng tiêu biểu về liên hệ giữa các yếu tố lịch sử và dân gian, là huyền thoại hóa cuộc đời và chiến công của các anh hùng lịch sử.
LÊ QUANG THÁI
Âm hưởng của thuật ngữ cổ này nghe ra hơi là lạ, thật khó lòng chuyển ngữ sang tiếng Nôm cho dễ hiểu. Từ “đàn” rồi từ “lệ” đều lấy gốc từ chữ Hán. Mỗi một từ đều có nhiều chữ đồng âm nhưng dị nghĩa. Xưa nay đành lòng để nguyên xi vậy. Có nhiều chữ “lệ” và lại lắm chữ “đàn”. Vì thế mà nó đã trở thành “chuyện ít người biết”.