Ngọn duyên hải đăng trên núi Tuý Vân

17:05 09/06/2008
Hành trìnhĐã từ lâu tôi cứ muốn đi núi Tuý Vân để tìm hiểu xem sao nó được vua Thiệu Trị liệt vào hàng thứ 9 trong “Thần kinh nhị thập cảnh”.

Chùa Thánh Duyên ngay chân núi Túy Vân

Ngày lễ, một mình rong ruổi hơn 60km từ Huế theo Quốc lộ 1A, men chân đèo Phước Tượng đi thẳng. Qua cầu Tư Hiền là tới nơi. Nhìn từ xa, núi Túy Vân không cao, tròn trịa dáng tựa chim Phụng, chỉ 57m nằm lẻ loi giữa vùng Tam Giang - Cầu Hai mênh mông đầm phá. Sát đó là núi Linh Thái cao 142m giống linh quy. Hình dạng 2 núi anh em được miêu tả qua câu:
Linh Thái rùa chầu chầu biển Bắc
Túy Vân phụng múa múa sông
Qua cổng tam quan, ngay chân núi là chùa Thánh Duyên nguồn gốc rất xưa. Sử sách không nói rõ chùa được xây dựng từ bao giờ. Duy có Đại Nam Thực Lục Tiền Biên ghi nhận, năm Nhâm Thân 1692 chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho sửa chữa lại chùa. Đến đời Minh Mạng với ý thức “Danh sơn thắng tích không nên để vùi lấp mất đi, huống chi đây là nơi đức Hoàng Tổ ta đã vì dân cầu phúc”. Vua phong Quốc tự và cho đại trùng tu Chùa vào 1836, đồng thời xây thêm gác Đại Từ, tháp Điều Ngự. Chính điều này làm nên một bố cục “Ba” độc đáo: Chùa - Gác - Tháp, khác với các chùa thông thường là Tháp - Chùa. Tôi hình dung ra tư tưởng phong kiến Nho Giáo về Thiên - Địa - Nhân đã được vị vua giỏi nhất nước Việt thời Nguyễn khéo léo lồng vào nơi đây.
Đi hết từ chánh điện ra sau hậu điện mới thấy chùa thừa hưởng đậm nét kiến trúc Nguyễn ở lối nhà rường 3 gian 2 chái, trùng thiềm điệp ốc. Nóc nhà sau cao hơn nóc nhà trước tạo thế cao thấp cho 2 bộ mái cùng nằm trên 1 nền. Chính bộ mái trùng thiềm làm không gian trong chùa mở rộng và tạo một khoảng phía trên nhiều ô hộc. Nơi đó đôi bàn tay tài hoa người thợ thả sức tung hoành với nhiều hoạ tiết Mai - Hạc, Mai - Điểu, Trúc - Yến, Nho - Sóc… theo lối nhất thi - nhất hoạ (mỗi bài thơ đều có một bức tranh minh hoạ). Trong cảnh bình yên nhà Phật có thêm màu vàng son quý phái Hoàng tộc, tạo thị giác thân quen nhưng ngạc nhiên cho du khách. 
Trong chùa, các tượng Phật đều đúc bằng đồng. Đặc biệt là bộ sưu tập 18 vị La Hán tiêu biểu ở thế kỷ XIX, mỗi vị một vẻ: oai phong, trầm tư, hùng dũng, nhân ái. Tất cả cùng làm bằng đồng. Điều này hiếm thấy ở các chùa Huế hiện nay.
Bước qua nhiều bậc cấp bằng đá tảng lớn, nhìn quanh chùa, hệ thống cửa vòm rất nhiều. Nó gợi lên một sự tiếp nối từ văn hoá Chămpa xa xưa. Ở núi Túy Vân có nhiều miếu cổ thờ Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi đến những vị thần sông, thần núi mang tín ngưỡng cư dân nông nghiệp, sông nước. Tôi đi tiếp, khoảng lưng chừng núi thì gặp một tường gạch xưa có cửa Nghi Môn đổ nát phần trên khá nhiều, bao quanh khuôn viên gác Đại Từ 2 tầng với lối kiến trúc tương tự chùa Thánh Duyên. Hình tượng “Nhân” hoà vào gác, làm cầu nối Địa - Nhân một cách vững chãi, từ bi đứng giữa Trời -  Đất với bóng Tùng, dáng Thông cổ thụ toả bóng xanh mát.
Tháp Điều Ngự
Chặng cuối, hướng mọi tò mò lên cả phía trước. Nhiều tiếng chim cuốc, chích choè, sơn ca và cả… ve mùa hạ. Tôi bỗng thấy một tháp cổ màu xám 3 tầng sừng sững “trơ gan cùng tuế nguyệt” trên đỉnh núi cao, chính là tháp Điều Ngự xưa. Bốn bề lau lách, cỏ dại mọc um tùm, hoang vắng và im lặng. Trèo lên cầu thang gỗ lắc lư cảm giác hơi run rồi cũng qua khi lên tầng 2, rồi tầng 3 - tầng cuối cùng. Gió thổi lồng lộng nâng tấm lòng và con người lên cao. Chợt nhớ vua Minh Mạng, Thiệu Trị cùng bao tao nhân mặc khách đã lên đây thưởng cảnh núi sông, thả hồn bay theo mây trời. Lòng tôi bồi hồi nghĩ về một quá khứ bi tráng dân tộc đã qua đi theo năm tháng. 
Ngọn đèn miền duyên hải
Trên tầng tháp cao 15m này nhìn ra 3 phía (tháp chỉ trổ 3 cửa), tầm mắt tôi được no căng, thoả mãn bởi bán kính rộng hơn 10 km trong buổi trưa nắng quang mây. Thấy hết mọi thứ. Hệ núi Bạch Mã cao 1500m nối từ màu xanh bạt ngàn hùng vĩ cho đến điểm cuối cùng là… cát trắng. Bên hàng vạn con sóng ngày đêm xô bờ, cửa Tư Hiền đã chứng kiến bao lần xuất quân đời Trần, Lê chinh phạt Chiêm quốc cũng như khúc hồi cố hương Gia Long năm 1801 tiến đánh Phú Xuân, giành lại đất tổ tiên từ tay Cảnh Thịnh triều Tây Sơn. Cửa biển đã bao lần mở, đóng do lũ lụt như bước thăng trầm hàng thế kỷ của con người nơi vùng đất duyên hải. Dài ra, rộng ra chính là hệ đầm phá Cầu Hai lớn nhất Đông Nam Á, 104km2. Nơi nguồn lợi thuỷ hải sản cá tôm nước lợ nuôi sống cả một mảnh đất Thừa Thiên nghèo khốn khó. Sát đó “thánh địa lăng” An Bằng nổi tiếng vì cái ngông đầu tư hàng tỷ đồng cho mỗi một lăng mộ. Lô nhô đầy các “khu nhà người quá cố” với màu sặc sỡ nhìn xa như một vùng đất thật nhiều hoa. Cạnh chiều dọc hùng vĩ non sông, nhiều làng quê phía dưới vẫn bình lặng như một trăn trở.
Tháp không có cửa nhìn ra biển Đông mặc dù núi gần biển. Âu là dụng ý của vua: HƯỚNG nhìn về quê hương; Nhìn - Nhận ra chính mình! Tôi như hiểu ra ý nghĩa thâm sâu ở “Ba”: Từ bố cục chùa, phân tầng tháp đến 3 hướng Bắc, , Tây. Con người là chủ nhân trời đất. Họ ra đi để quay về, họ sống và chết, họ muốn nhìn tất cả rồi lại nhìn chính bản thân mình. Như đôi mắt, bóng tháp canh giữ hình ảnh con người nơi tận cùng miền duyên hải. Là ngọn đèn thắp ánh sáng quê hương.
04-2008

TÔN THẤT ĐẠI DƯƠNG
(nguồn: TCSH số 232 - 06 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • ÐÔNG HÀ

    Tôi là người sinh ra sau chiến tranh, lớn lên bằng những bài học lịch sử. Thế hệ chúng tôi yêu Tổ quốc theo những bài học ông cha để lại qua những trang sách cộng thêm chút tính cách riêng của chính bản thân mỗi người. Mỗi người chọn cho mình một cách thể hiện tình yêu đó khác nhau.

  • CHẾ LAN VIÊN

    Hồi ký về Đoàn Nghệ thuật Xây dựng (Huế 1946)

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                              (Bút ký)

    Ông Lê nguyên giám đốc sở Văn hoá Bình Trị Thiên, một lần về Thủy Dương lấy  tài liệu viết tuyên truyền cho vụ lúa mùa, đã cụng đầu với ông bí thư xã.

  • TẠ QUANG BỬU
                    (Hồi ký)

    Tôi đã học ở trường Quốc Học bốn năm từ năm 1922 đến 1926, cách đây đúng 60 năm.
     

  • TRỊNH BỬU HOÀI

    Đất trời đang mặc chiếc áo mới cho trần gian. Con người cũng thay chiếc áo mới cho mình. Chiếc áo khoác trên đôi vai sau một năm oằn gánh công việc. Chiếc áo phủ lên tâm hồn ít nhiều khói bụi thế nhân.

  • NHỤY NGUYÊN

    Một câu trong Kinh Cựu ước: Khởi thủy là lời. Tôi không dám khoác thêm bộ cánh mới, mà chỉ muốn tìm cho nó một mỹ từ gần gũi: Khởi thủy là mùa Xuân.

  • ĐÔNG HƯƠNG

    Trí nhớ tôi tự dưng quay trở về với tuổi thơ, tuổi ba mẹ vừa cho đi học. Ờ! Lâu quá rồi, cái Tết đối với tôi không còn ý nghĩa gì nữa, trí nhớ lơ mơ trở lại khoảng đời thơ ấu, có lẽ đẹp nhất trong đời của mỗi con người của chúng ta.

     

  • TRẦN HỮU LỤC (Tùy bút)

    Tháng Chạp ở quê tôi là tháng của hoa mai. Dường như màu của hoàng mai tươi thắm khắp mọi nẻo đường. Những chậu mai kiểng, vườn mai chùa, vườn mai nhà, đường phố mai, công viên mai, những thung lũng mai núi… đến thì lại nở đẹp một màu vàng mỏng nhẹ trong sương sớm.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU (Bút ký lịch sử)

    Nhiều năm men theo dấu chân của nàng Huyền Trân, công chúa nhà Trần mở đất Ô, Lý, hễ có dịp là tôi lại hành hương đất Bắc. Viếng đền thờ các vua nhà Trần ở làng Tức Mặc - nơi ấy nay thuộc phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định.

  • HÀ THÚC HOAN

    Những ai đã từng là học sinh trường Quốc Học - Huế đều có Một thời Quốc Học(1). Thời Quốc Học của tác giả bài viết này là ba năm học tập ở các lớp đệ tam (lớp 10), đệ nhị (lớp 11) và đệ nhất (lớp 12), từ năm 1956 đến năm 1959.

  • TRẦN HUY MINH PHƯƠNG (Tùy bút)

    Thoáng một cái, xài hết ba trăm sáu mươi lăm ngày mà hổng biết. Bao dự tính giằng co rồi dang dở, chưa kịp nghĩ thấu, chưa xiết làm xong, phân vân nhiều nốt lặng, yêu người chưa sâu nặng, nợ người chưa trả xong… ngày giũ vội qua đi. Ngẩn ngơ, mùa về!

  • THIẾU HOA Hắn! Một vị khách không mời mà đến. Hắn đến viếng nhà tôi trong một đêm mưa to gió lớn. Cả nhà ai cũng biết sự có mặt của Hắn. Đêm đầu tiên cứ nghĩ Hắn chỉ trốn mưa tạm thời rồi hôm sau sẽ đi. Nhưng đến nay đã qua một mùa xuân, Hắn vẫn còn ung dung tự tại ở trong nhà, lại ở đúng trong phòng của tôi như một thành viên chính thức trong gia đình.

  • PHAN QUANG                Trích hồi ký ... Đến thị xã Sơn La chiều hôm trước, sáng hôm sau trong khi chờ đến giờ sang làm việc với Khu ủy Tây Bắc, đồng chí Nguyễn Chí Thanh - mà các đồng chí gần gũi đều quen gọi bằng tên thân mật: anh Thao - cho mời chủ nhiệm nhà khách của khu tới.

  • VÂN NGUYỄN                 Tùy bút “Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa...” (Trịnh Công Sơn)

  • PHAN THỊ THU QUỲ Ba tôi - liệt sĩ Phan Tấn Huyên, Nguyên Chánh Văn phòng Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Thừa Thiên - thường dặn tôi mấy điều: dù khó khăn đến mấy cũng không được ngừng nghỉ phấn đấu học hành bởi tri thức là sức mạnh; dù như thế nào đi nữa cũng phải giữ cho được bản sắc văn hóa Huế rất đỗi tự hào của mình...

  • TẤN HOÀI Một khung trời mây Một dải gương lung linh cuộn quanh hoàng thành cổ kính. Trầm mặc và ưu tư. Tưởng chừng như thế!...

  • XUÂN HOÀNG Tôi được Hội Nhà văn Việt Nam cử đi thăm hai nước Ru-ma-ni và Bun-ga-ri đúng vào những ngày đầu xuân Mậu Thân, sôi động.

  • HỮU THU & BẢO HÂN                                     Ký   Đến bây giờ nhiều người vẫn chưa quên hình ảnh hãi hùng mà cơn bão mang tên Cecil tàn phá vào cuối tháng 10 của năm 1985 ở miệt phá Tam Giang của tỉnh Thừa Thiên-Huế.

  • PHẠM THỊ CÚC Thầy dạy lớp Nhì Thầy dạy lớp Nhì tên Thanh. Người thầy roi roi, hơi thấp và nhỏ con. Bù lại, thầy rất nhanh nhẹn và vui vẻ, hoạt bát, nụ cười luôn nở trên môi.

  • VĨNH NGUYÊN Biết sở Ngoại thương có đến năm ông vua, tôi tặc lưỡi - chà, thời buổi này tiếng vua quan nghe có vẻ mai mỉa làm sao ấy? Nhưng lên được ngôi vua đâu phải đơn giản? Dẫu vua ác, vua hiền, vua tài ba hay bất lực, vẫn là vua một thời và khối kẻ mong ước được "một ngày tựa mạn thuyền rồng"...