NGUYỄN CHIẾN
Không bao giờ Graham Green kể về các tác phẩm của mình trước khi ông đặt dấu chấm hết và đưa chúng tới nhà Xuất bản.
Nhà văn Graham Green - Ảnh: internet
Thế nhưng những người có dịp được gặp ông đều háo hức thầm mong được biết về những ý đồ và dự định của nhà văn. Phóng viên thường trú của "Báo Văn học" Liên Xô ở Pháp A.Sabốp cũng không tìm được câu hỏi ấy khi gặp Graham Green:
- Ngài vừa chia tay với "Cốt truyện Panma" sau khi cho in cuốn sách "Tôi làm quen với vị tướng". Có lẽ tiếp theo sau đó là cuốn tiểu thuyết về Nicaragoa hỏi ngài đã tới ba lần rồi chăng? Bởi hình như đó là một trật tự hợp lôgíc của cuộc đời và sáng tác của ngài.
- Không, - Green mỉm cười, - trong tôi chưa chín muồi "cốt truyện Nicaragoa". Vào mùa hè sắp tới, tôi dự định dành thì giờ cho cuốn tiểu thuyết đã bắt đầu viết 10 năm trước. Nói chung, tôi không tin là trong cuộc đời văn nghiệp của tôi lại tồn tại một trật tự như thế. Tôi đã tới Hêmia, nhưng rồi chẳng viết gì về xứ sở đó cả. Tôi đã ở Chilê dưới thời cố Tổng thống Agienđê, nhưng sau đó tôi chỉ giới hạn trong những bài phóng sự. Đối với cuốn tiểu thuyết "Những diễn viên hài kịch" tôi cần đến bốn chuyến đi Hai-ti, và tôi cũng đặt chân tới Panama ngần ấy lần trước khi một cốt truyện văn học trỗi dậy trong trí tôi. Nhưng rồi tôi cũng không sử dụng cốt truyện ấy.
- Song ngài đã kể về tướng Ômar Tôrilôt trong cuốn sách của mình...
- Có, tôi có kể, thậm chí cuốn sách không hoàn toàn bình thường đó đối với tôi - Có chút gì giống như hồi ký và ký sự đi đường - lại buộc tôi phải lao động suốt hai năm trời, vậy làm sao lúc ấy có thể nói gì đến tiểu thuyết! Vậy là tôi đã viện đến một mẹo: tôi đã được thư thái không bị ám ảnh với cốt truyện văn học bằng cách kể chuyện theo hình thức một truyện vừa mang tính chất tư liệu, tiểu sử. Thế nhưng bây giờ khi cốt truyện ấy "đã được kể" nó chẳng còn thuộc về tôi nữa. Vì lý do đó tôi chưa quyết định viết gì về Nicaragoa. Tôi yêu mến đất nước này, cuộc đấu tranh của nhân dân Nicaragoa gần gũi trái tim tôi. Nhưng liệu một cuốn tiểu thuyết có được viết không thì tôi chưa biết trước, nó có thể nảy sinh ra trong tôi mà cũng có thể chẳng nảy sinh được. Song, tôi coi nghĩa vụ của mình là phải nêu ra được một bằng chứng chính luận về những gì tôi đã nhìn thấy, đã nhận biết, đã tiếp nhận hay gạt bỏ bằng tất cả tấm lòng. Chính tôi đã làm như vậy với Mêhicô, với Nicaragoa: Không nhất thiết là tiểu thuyết, nhưng nhất thiết phải có một lập trường rõ ràng, có phóng sự - ủng hộ hay chống đối.
- Ngài hẳn còn nhớ lời phát biểu trên tờ "Sunday Telegraph" vào đầu năm nay mà ý nghĩa của nó quy tụ ở điều cho rằng dường như cùng với nhà thờ Thiên chúa giáo, bằng cuộc đấu tranh của mình vì hòa bình, ngài đã can dự một cách khách quan "dưới bàn tay của chủ nghĩa cộng sản"?
- Có, tôi có nhớ. Tôi đã gửi câu trả lời của tôi cho tờ Sunday Telegraph, và tờ này đã đăng tải nó. Điều đó không có nghĩa những cuộc tấn công tương tự nhằm vào tôi sẽ không lặp lại nữa. Tôi đã phản ứng tương tự như vậy đối với lời tuyên bố do những người cầm đầu các nước phương Tây thông qua ở Tôkiô. Tôi đã gửi thư tới tờ "Times" để bày tỏ sự phản đối của tôi đối với ý tưởng về cái gọi là "chủ nghĩa khủng bố biện chứng" - Không được quy phong trào giải phóng dân tộc của các dân tộc là chủ nghĩa khủng bố, và nhân cớ đó mà ném bom LiBi, đưa quân tiểu phạt tới Nicaragoa. Ở Nicaragoa, người ta đã kể cho tôi nghe về tội ác của bọn Côntrax hành động khủng bố, bọn này xuất phát từ lãnh thổ nước Ônđurat. Tôi đã giấu những bằng chứng đó trong bức thư gởi từ "Times". Người ta trả lời tôi rằng họ không công bố bức thư này. Lẽ tất nhiên, tôi sẽ tìm được cơ quan xuất bản khác sẽ đăng bức thư của tôi. Tôi sẽ đặt câu hỏi: lập trường của tờ "Times" phù hợp ra sao với nguyên tắc tự do ngôn luận? Không thể im lặng về chủ nghĩa khủng bố, về cái gọi là "những cuộc chiến tranh quy mô nhỏ", về sự coi thường số phận của các dân tộc. Chính vì lẽ đó mà vừa qua tôi đã trở thành thành viên của Hội đoàn kết Anh với nhân dân Nicaragoa.
- Như vậy, "Không nhất thiết là tiểu thuyết, nhưng nhất thiết phải có một lập trường rõ ràng". Theo mọi chuyện đã xảy ra, chính điều đó chắc không làm cho những kẻ bài bác ngài hài lòng...
- Chắc ngài biết là bốn mươi năm trước đây, khi ông bạn tôi là nhà văn Colder Schun nghĩ ra khái niệm "Green land", tôi đã không chấp nhận khái niệm đó, và bây giờ tôi sẽ còn không chấp nhận. Bởi dưới khái niệm "Green land" (vùng đất của Green) ngụ ý một điều tựa hồ một hòn đảo văn học tưởng tượng. Song điều của tôi viết hiện đang tồn tại trên thực tế. Tôi không bịa ra chiến tranh Việt Nam trong "Người Mỹ trầm lặng" - cuộc chiến tranh ấy là một sự thực: Trong tiểu thuyết "Yếu tố con người", tôi viết về tính chất thực tế của hiểm họa hạt nhân đe đọa các nước châu Phi từ phía Cộng Hòa Nam Phi, và tôi chưa kịp kết thúc cuốn sách, thì điều mà tôi phán đoán đã thành hiện thực - Người ta công bố các văn kiện về cuộc trao đổi bí mật về thông tin giữa các trung tâm hạt nhân ở Cộng Hòa Nam Phi và Cộng Hòa Liên bang Đức. Đúng, thế giới, nơi chúng ta đang sống, tràn đầy hiểm họa. Nền văn minh kỹ thuật đã không làm giảm bớt mà đã làm gia tăng mối nguy cơ biến tai họa cục bộ ngẫu nhiên hay "chiến tranh quy mô nhỏ" thành mối đe dọa toàn thể loài người. Vì vậy tôi lấy làm tiếc phải nói rằng sự cố ở Trecnôbưn mà Liên Xô hiện đang xử trí rất nghiêm túc, lại bị giới cầm quyền Mỹ coi như một nguyên cớ nhằm làm căng thẳng hơn các quan hệ trên thế giới. Song, lẽ nào những tai biến tương tự lại không xảy ra trước đây ở Anh và ở Mỹ hay sao? Ở nước Anh, mãi nhiều năm sau chúng tôi mới biết về việc một máy bay Mỹ đâm nhào xuống một kho hạt nhân.
Tôi hy vọng rằng, đối với thế giới, thảm họa của con tàu "Challeuger", tai họa xảy ra tại Trimai ở Mỹ, cũng như sự cố ở Trecnôbưn sẽ trở thành tín hiệu báo trước mối hiểm họa thức tỉnh loài người rút ra các bài học nghiêm túc nhất từ những gì đã xảy ra.
N.C
Dịch theo "Báo Văn học" Số 29-1986
(SH26/8-87)
VALENTIN HUSSON
Trước hết, ta phải hướng sự chú ý đến động từ “cách ly” khi mà với tư cách là một ngoại động từ, nó có nghĩa là sự vứt bỏ ra khỏi một giới hạn; trong khi với tư cách là một nội động từ, nó hướng đến sự ràng buộc để ở lại trong một vài giới hạn nhất định. Nó vừa nói lên cả sự vứt bỏ lẫn sự rút lui; vừa hiện diện vừa vắng mặt.
HIỀN LÊ
Hiroshi Sugimoto (sinh năm 1948 tại Tokyo) là nhà kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia người Nhật.
Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.
TRẦN KIÊM ĐOÀN
Nếu bình thường thì giờ nầy chúng tôi đang ở “hộp đêm” trong bụng máy bay Eva trên đường về Quê hương và đang vượt nửa sau Thái Bình Dương.
JEAN-CLET MARTIN
Trong thời điểm cách ly và tự cách ly này, thế giới tái khám phá ra chiều kích mang lại cho nó một phương hướng nhất định.
Slavoj Žižek, nhà triết học người Slovenia, được mệnh danh là “nhà triết học nguy hiểm nhất ở phương Tây” hiện nay. Ông nổi tiếng với tác phẩm Đối tượng trác tuyệt của ý thức hệ (The Sublime Object of Ideology, 1989), ở đó ông đã kết hợp quan niệm duy vật Marxist và phân tâm học Lacan để hướng đến một lý thuyết về ý thức hệ.
MARKUS GABRIEL
Trật tự thế giới bị lung lay. Một loại virus đang lây lan trên quy mô vô hình của vũ trụ mà ta không hề biết được những chiều kích thực sự của nó.
ĐỖ LAI THÚY
M. Bakhtin (1895 - 1975), nhà nghiên cứu văn học Nga - Xô viết có tầm ảnh hưởng bậc nhất ở Việt Nam. Ông là nhà lý luận tiểu thuyết. Người phát hiện/minh ra tiểu thuyết đa âm, tính đối thoại, nguyên tắc thời-không, tính nghịch dị và văn học carnaval hóa…
THÁI THU LAN
Émile Zola là một nhà văn hiện thực lớn nhất đồng thời cũng phức tạp nhất của nước Pháp ở cuối thế kỷ thứ 19, là người sáng lập lý luận về chủ nghĩa tự nhiên, là một tấm gương lao động không mệt mỏi, là một chiến sĩ có tinh thần chiến đấu dũng cảm chống chiến tranh phi nghĩa, chống quyền lực tàn bạo và bênh vực quần chúng lao động nghèo khổ.
NGUYỄN TÚ ANH - TRẦN KỲ PHƯƠNG
Trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nghệ thuật Chàm, hình tượng con chuột luôn mang ý nghĩa tốt đẹp, đó là con chuột nhà hay chuột nhắt (mouse), chứ không phải chuột cống.
ANĐRÂY GOCBUNỐP (Tiến sĩ ngôn ngữ học Liên Xô)
Gần đây đã có những khám phá rất có ý nghĩa ở Washington và London, trong những cuốn sách đã yên nghỉ trên các kệ sách thư viện trong cả bốn thế kỷ nay.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Jen học trước tôi hai năm, đàn chị. Cô là thường trú, PGY- 4, tôi là PGY- 2. Trong nghề chúng tôi, hơn nhau một năm đã là tình thầy trò, huống gì hơn hai.
LƯU TÂM VŨ
hồi ký
LTS : Nhà văn Lưu Tâm Vũ sinh năm 1942, tốt nghiệp sư phạm Bắc Kinh năm 1961, sau đó dạy học nhiều năm ở Bắc Kinh. Truyện ngắn đầu tay Chủ nhiệm lớp đoạt giải thưởng truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978, được coi là tác phẩm mở đầu cho văn học thời kỳ mới.
Cách đây 40 năm khi nhà xuất bản Morrow and Avon chi 5 triệu đô la cho James Clavell, tác giả những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Hồng Kông ngày ấy, Đại tướng quân, Whirlwind, giới xuất bản ở Mỹ choáng váng. Nhưng bây giờ tiền nhuận bút đã vượt xa kỷ lục ấy.
ALAN BURNS
William Carlos Williams cũng như bất cứ người nào, đến rất gần với việc nhận thức ra lý tưởng mới của chủ nghĩa hình tượng, nhất là trong những bài thơ như “The Great Figure” và “The Red Wheelbarrow”.
Đây là một câu chuyện về di dân được viết theo chương trình “Dự án chiếc giày” (The Shoe Project) được khởi xướng thành lập bởi tiểu thuyết gia Katherine Govier, Toronto, Canada. Chương trình này bao gồm việc giúp các phụ nữ di dân viết một câu chuyện 600 từ về kinh nghiệm di dân của mình và lên một sân khấu nhỏ để trình diễn (đọc) câu chuyện đó trước những khán giả trong vùng. “Dự án chiếc giày” được thực hiện ở Antigonish với sự giúp đỡ của tiểu thuyết gia Anne Simpson và nhà biên kịch Laura Teasdale.
NHƯ QUỲNH DE PRELLE
Tôi đã từng mơ ước về quê nhà để đọc thơ tiếng Việt, để thổn thức cùng thi ca tiếng Việt. Thế mà, ở nơi này, giữa trái tim châu Âu và trong lòng bạn bè quốc tế, tiếng Việt của tôi ngân lên giữa những nhịp điệu, những giọng nói hoàn toàn khác. Và tôi đi đọc thơ, tự bao giờ tôi cũng tự chuyển ngữ những bài thơ của chính mình với bạn đọc ở đây. Đi đọc thơ, bao điều thú vị và những mới mẻ.
HÂN QUY
(Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)
PATRICIA HIGHSMITH
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Một người bạn cũ ở Mỹ kể với tôi rằng gần mười năm nay anh không đi du lịch xa, cũng không về Việt Nam, mặc dù nhớ. Tôi hỏi lý do, anh bảo vì sợ nỗi buồn chán khi phải ngồi trên máy bay mười mấy giờ.