NGUYỄN KHẮC THẠCH
Phải giải thích cho mỗi người thích giải
Cần công bằng với những kẻ bằng công.
Nhà thơ Hồng Nhu nhận giải thưởng tác giả cao tuổi Tuyển thơ chọn lọc Hồng Nhu, giải thưởng VHNT Cố đô lần thứ 4 (2003-2008) - Ảnh: Voque.org
Hai câu thơ mang cấu trúc biền ngẫu đó đã làm nên một cặp câu đối mà vế trên thì có khẩu khí của Ban giám khảo còn vế dưới lại buông hoài vọng của các thí sinh. Không biết ai đã sáng tác ra nó và từ bao giờ mà bây giờ, đem vận vào “hậu cảnh” giải Văn học Nghệ thuật Cố Đô lần thứ hai này cũng thấy rất hợp. Mặc dầu không có “ca dao hò vè” như giải Cố Đô 1987 - 1992 nhưng giải lần này, cũng không tránh khỏi lời ong tiếng ve, tò te thế sự. Điều đơn giản là những người thích giải bao giờ cũng nhiều hơn số giải thưởng mà những người thích giải ở đây lại thuộc giới “văn mình vợ người”. Bởi vậy, sẽ là ngây thơ nếu nghĩ rằng, cả 208 tác phẩm công trình dự thi đều xếp giải cao nhất, đồng hạng thì không còn ai, không còn gì để chào xáo nữa nhưng xin thưa liền có đấy, ít nhất cũng có người giãy nảy lên mà rằng: sao tôi cũng chỉ bằng anh kia thôi?!
Phàm những gì đã gọi là thi thì lẽ đương nhiên phải có người được kẻ thua, người cao kẻ thấp. Những ngọt ngào cay cú sau giải âu cũng là lẽ thường tình. Song ở đây, không bàn về khía cạnh nhi nhiên đó mà chỉ xin đề cập khía cạnh “ý chí” của giải.
Trước hết, công bằng mà nói, giải VHNT Cố Đô lần này đã được tiến hành một cách cẩn trọng, khoa học và khách quan hơn lần trước, về cơ bản, gần như nó đã vô hiệu hóa được cơ chế bao cấp “Vừa thi vừa chấm vừa vồ giải luôn”. Việc tổ chức “đấu loại” ba vòng đã hình thành ra “ba nhánh quyền lực” vừa khống chế nhau, vừa bổ sung nhau ngõ hầu làm trong sạch môi trường giải thưởng. Vòng thẩm định được mời những chuyên gia, những tác giả cùng “môn phái” đủ uy tín, đủ trình độ để bình xét từng tác phẩm công trình trong từng lĩnh vực chuyên môn tham dự giải. Có thể nói họ là những chủ thể thẩm mỹ tổng hợp trên các cấp độ thưởng ngoạn, sáng tạo, biểu hiện và định hướng (phê bình). Nhóm thẩm định các chuyên ngành không chỉ làm chức năng tư vấn cho Ban sơ khảo và Hội đồng Nghệ thuật mà họ còn làm công việc “đao phủ” vòng ngoài cho giải. Sau khi “cãi cọ” nhau, họ lại bỏ phiếu bầu và phiếu nhận xét để chọn ra những “đối tượng thẩm mỹ” đẹp hơn, lung linh hơn trong quan hệ đối sánh. Đây được coi là “cửa tử” mà ai vượt được qua nó thì coi như đã chạm cửa “thiên đàng”. Tỷ như Phân hội Mỹ thuật, có 66 tác phẩm ở phía “đầu vào” mà phía “đầu ra” chỉ còn lại 10. Mười tác phẩm ấy đi qua hai cửa nữa cũng chỉ rơi rụng 4 cái và còn 6 tác phẩm tới đích giải thưởng. Bước vào vòng sơ khảo thì tính “mặt trận” của giải lại hiện lên rõ hơn. Ban sơ khảo gồm các thành viên chức sắc đại diện cho các phân, chi hội chuyên ngành. Mỗi chủ thể thẩm mỹ ở đây đều có thể chuyên sâu trong lãnh địa ngành mình còn đối với ngành khác, phần lớn họ chỉ còn trơ trọi tư cách thưởng ngoạn và đành phải “dựa cột mà nghe”. Tất nhiên, cũng có những người có năng lực “đa hệ” để khi liếc qua lĩnh vực chuyên môn khác, họ vẫn “thưa thốt” được. Trong huống cảnh này, vai trò “thuyết khách” của vị đại diện mỗi ngành đều có ý nghĩa “định vị” cho những lá phiếu của các thành viên khác. Tại vòng này, ngoài việc “bớt xén” Ban sơ khảo cũng đã “phúc thẩm” lại một số trường hợp mà vòng dưới còn nan giải để vớt lên trên xem xét tiếp. Càng lên cao thì biên độ thẩm mỹ của đối tượng càng rộng ra và trình độ thẩm định của chủ thể càng cô lập. Mặc dầu các ủy viên Hội đồng Nghệ thuật đều được chọn những người khá tiêu biểu nhưng nó cũng không hoàn toàn và thuần túy chuyên môn. Có vài thành viên do “cơ cấu” nên mặc nhiên, họ ngồi trên ghế giám khảo mà không rành một lĩnh vực chuyên môn nào, nếu không nói là hời hợt và cạn cợt. Tuy rằng, những người này đều là sếp trong giới văn hóa văn nghệ nhưng vì họ chỉ quen “thao tác” bề nổi như bơi trên mặt nước mà “ngọc trai” nghệ thuật lại nằm dưới đáy nên họ dễ bề “ăn ốc nói mò”. Biết đâu những tổn thương này nọ của giải lại có nguyên nhân từ họ. Cũng may mà vị Chủ tịch Hội đồng, mặc dù không thuộc chủ thể đồng sáng tạo nhưng ông là người có bản lĩnh và có tâm, có học và có am hiểu nên đã điều hành cuộc định giá những cái vô giá được xác đáng hơn. Hội đồng Nghệ thuật là cơ quan chuyên môn có quyền lực hợp pháp có thể bác bỏ hoặc lựa chọn bất cứ tác phẩm công trình dự giải nào. Sau khi rà soát lại toàn bộ hồ sơ dự thi rồi tham khảo ý kiến chuyên gia các chuyên ngành, Hội đồng nghệ thuật đã chấp nhận danh sách tác giả, tác phẩm vừa lọt qua hai vòng thẩm định, sơ khảo để quyết định thứ hạng cho mỗi tác phẩm bằng phiếu kín. Đầu vào ở đây là 48 và đầu ra cũng 48 nhưng đã cộng trừ một. Người được cộng đó là tác giả Mai Xuân Hòa, với biện minh có công viết nhiều ca khúc thiếu nhi(!).
Sự “bất cập tình thế” đáng kể hơn cả trong giải Cố Đô là nó đã xóa nhòa ranh giới, đã đánh đồng phẩm trật của 7 ngành nghệ thuật vốn đã được “xã hội hóa” thứ hạng. Chưa nói chuyện đem một ca khúc so với một tập thơ hoặc một bức ảnh so với một cuốn tiểu thuyết nhưng ngay một bức ảnh so với một bức tranh cũng đã khác xa. Cũng như một họa sĩ có thể cầm máy chụp ảnh được nhưng một nhiếp ảnh gia chắc gì đã cầm bút vẽ để vẽ tranh? Vậy nhưng mọi bức ảnh được giải đều có giá trị tặng thưởng cao hơn giá trị hàng hóa của chính nó trong khi giá trị của những bức tranh thì dường như ngược lại. Chưa nói chuyện giá trị hàng hóa của tranh là giá trị độc bản còn giá trị hàng hóa của ảnh là giá trị phiên bản. Còn giá trị ảo của nhiếp ảnh thì đâu có gì cao xa, thâm thúy, đa nghĩa như các nghệ thuật khác và buộc nó phải đứng sau chót, cách biệt mỹ thuật những ba bậc nữa (Kiến trúc, sân khấu và múa). Trong 5 năm qua, ngành hội họa vẫn thăng hoa sự sang trọng của Huế lên nhiều hơn so với nhiếp ảnh. Trong quan hệ quốc tế cũng vậy, hẳn chưa có tác giả nhiếp ảnh nào tại Huế được mời đi triển lãm cá nhân ở nước ngoài như một số họa sĩ đã từng. Thế nhưng tại giải Cố Đô lần này, số lượng cũng như thứ bậc, nhiếp ảnh đã lấn át hội họa, mặc dầu hội viên Mỹ thuật gần gấp đôi hội viên Nhiếp ảnh. Trong các thành viên của Hội Liên hiệp, vị trí tương đương với văn học là Mỹ thuật chứ không phải nhiếp ảnh. Nếu chỉ nhìn bề nổi thì rất dễ “trông gà hóa cuốc”. Cái giải A của nhiếp ảnh thật khó thuyết phục dư luận “tâm phục khẩu phục”. Ngay trong nội bộ nhiếp ảnh cũng đã có những ý kiến bất đồng. Thậm chí, có người còn suy bì rằng, cùng “Mang chuông đi đánh nước người”, cái được giải về thì không được gì, cái không được gì về thì được giải. Đó là trường hợp bức ảnh “Thì thầm” được giải ACCU ở Nhật của Thanh Tú. Nói gì thì nói, nó cũng đã là một tác phẩm nhiếp ảnh có “chứng chỉ” quốc tế. Từ dị nghị đến tò mò rồi lần hỏi đến tận gốc thì thấy, hai bức ảnh được giải A đó, khi xét sơ khảo, bức “đường nét công nghiệp” chỉ được 1/9 phiếu, còn bức “Thời gian còn lại” là 8/9 phiếu, nghĩa là không được 100% phiếu. Đương nhiên, bức 1/9 phiếu đã bị loại nốc ao, còn bức 8/9 tính ra điểm trung bình cũng chỉ xấp xỉ 8, đứng cuối hạng B. Trong khi đó, có một số tác phẩm ngành khác (kể cả Mỹ thuật) đủ 100 phiếu (9/9), điểm trung bình cũng xoay quanh con số “9 nút”, xếp hạng A ở sơ khảo, thế mà kết quả cuối cùng, chúng lại bị đẩy xuống thấp hơn hai bức ảnh kia của Nhiếp ảnh?! Ngoài ra, cũng còn vài trường hợp cắc cớ khác, đó là Âm nhạc có một giải “thiếu âm thanh”, Sân khấu có một giải “thừa kịch tính”. Xin trở lại dẫn chứng giải đề tài của tác giả Mai Xuân Hòa. Theo thông báo (kiêm thể lệ) về giải thưởng VHNT Cố Đô lần thứ hai của Tỉnh thì giải “chỉ xét những TPCT được chính tác giả, nhóm tác giả đăng kí dự xét thưởng”. Như vậy là đã quá rõ ràng, những tác phẩm mà tác giả không gửi đến thì không thể xét, càng không thể có giải. Khi tác giả Mai Xuân Hòa gửi chùm ca khúc khác (viết cho người lớn) đã bị loại từ vòng thẩm định và Ban sơ khảo thấy yếu cũng không đề nghị lên, vậy tại sao Hội đồng nghệ thuật lại xét công về ca khúc thiếu nhi, về tác phẩm không gửi? Lấy đâu ra mà xét? Hay xét theo trí tưởng tượng? Xét một loại âm nhạc không có âm thanh?! Trên thực tế, Mai Xuân Hòa cũng có một tập ca khúc viết cho đề tài thiếu nhi nhưng nó ra đời sau mốc xét giải Cố Đô lần này, không hợp lệ không thể dự thi. Nhờ sự bảo kê của ai đó, nó đã bất chấp luật lệ để giành lấy một giải thưởng. Chưa hết, vì sau mốc lần này nên tác giả có quyền dự giải Cố Đô lần thứ ba và sẽ dễ dàng được giải vì đề tài. Khi cần, người ta sẽ khai thác đến cùng, kể cả sự lạm dụng. Vô hình trung, một tác phẩm được dự giải Cố Đô 2 lần và 2 lần được giải! Chính điều này đã xảy ra với kịch sĩ Ngọc Tranh. Theo quyết định số 391 QĐ/UBND ngày 1- 2-1994 của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Ngọc Tranh đã được giải hạng B với kịch bản “Cha con người hát rong”. Thế mà tại giải lần này, Ngọc Tranh lại dẫn độ “Cha con người hát rong” vào hát và “hái giải” một lần nữa. Thật đúng là thừa kịch tính!
Không biết những điều trông thấy mà... đau con mắt trong giải Cố Đô như thế có làm phật lòng các bao công nghệ thuật?
Còn 160 tác phẩm công trình dự thi mà không được đăng khoa đều có những nguyên nhân riêng nhưng chung qui lại là... chờ keo khác. Cá biệt, cũng có trường hợp phạm qui có thể chỉ ra được. Ví dụ, một đạo diễn đã không nắm được tiêu chí của giải rồi bê luôn một chương trình ca múa nhạc dàn dựng cho đề tài tỉnh bạn về dự giải Cố Đô. Trong số tác phẩm âm nhạc dự thi có 2 bản giao hưởng “Người con gái Sông Hàn” của Khắc Yên và “Ký ức cố đô” của Vĩnh Phúc. Vì có chất lượng tương đương và chỉ được chọn một thì tất nhiên giải phải khuyến khích cho đề tài cố đô. Hoặc có những chuyên ngành do đặc điểm riêng, người ta qui định gửi một tác phẩm tự chọn thì tác giả lại gửi đến hai. Rồi cũng được chấp nhận vào “tỉ thí” nhưng trước hết, hai tác phẩm đó phải tự chia phiếu cho nhau, bởi lẽ trong Ban giám khảo, người ủng hộ cái này, người lại chọn cái kia, rốt cục cả hai đều bị loại vì thiếu phiếu. Động thái ấy có thể do tác giả bị “phân liệt”, hoặc thiếu tự tin, hoặc quá tự tin. Nếu là quá tự tin thì sự tự tin ấy hết sức ngây ngô. Làm gì có chuyện một thí sinh thi người đẹp lại vừa đoạt hoa hậu, vừa đoạt á hậu trong cùng một lần thi?
Dù sao, giải Cố Đô cũng mang tính niên hạn (5 năm 1 lần) nên đơn vị để xét là tác-giả-tác-phẩm chứ không xét thuần túy tác phẩm như những cuộc thi khác. Do vậy, trường hợp chất lượng đơn vị tác phẩm ngang ngửa nhau như bức “Hoài tưởng” của sinh viên Lê Ngọc Tường và bức “Trò chơi” của thầy Nguyễn Thiện Đức thì hẳn nhiên tác giả thầy sẽ được xếp giải cao hơn tác giả trò. Suy cho cùng, đấy cũng là một trật tự khả kiến của sự công bằng, hiểu theo nghĩa phải đạo. Còn chỗ mà các “tân khoa” so đo “cần công bằng với những kẻ bằng công” lại thuộc về “trường đoạn” khác. Trong giới văn nghệ, có một “quy luật đặc thù” là không giữ bí mật làm gì cho mệt! Bởi vậy, hầu như mọi người dính giải, họ đều biết được thứ hạng giải của mình qua “thị thực” phiếu kín của Hội đồng nghệ thuật trước khi bị “Sự cố Kinh phí”. Chỉ vì kẹt tiền mà một số giải phải “hạ cấp” cứ y như chúng bị thi hành kỷ luật vậy. Điều đó đã “quấy rối” cơ chế tâm lý những đối tượng vốn đã bằng người rồi lại phải thua người. Riêng hai trong số năm vị thành viên Hội đồng nghệ thuật dự giải, giải của họ không những không bị hạ mà còn “lên giá” hơn 1 đến 2 bậc so với Ban sơ khảo đề nghị! Xem ra, sự công bằng được thu lại trong một không gian hẹp trên kênh thượng tầng kiến trúc cũng đã lắm nhiêu khê. Sự nhiêu khê ấy chính là “sản phẩm thặng dư” của ý chí phi thiền. Song, nhìn lại một cách tổng thể về giải, nếu chỉ “tỉa tót” mặt thiếu công bằng không thôi thì cũng bị rơi vào sự thiếu công bằng nốt. Thực ra, cái được ở đây vẫn lớn hơn cái chưa được. Ngoài “mặt bằng” về sự công bằng nói chung, giải lần này còn thể hiện được cả sự công bằng nhân đạo và công bằng cao thượng vốn có trong tâm thức người Huế. Đó là tập “Thơ lục bát” của nhà thơ quá cố Hải Bằng, được trao giải cao hơn kết quả thẩm định chất lượng tác phẩm. Đó là sự Fair play với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, tác giả không còn là công dân của Huế nữa vẫn không bị coi là “ngoại tộc”. Tập thơ “Đồng dao cho người lớn” của anh không những được giải mà còn được trao giải cao nhất và sang trọng nhất vì nó là Thơ.
Vậy là giải VHNT Cố Đô 1993 - 1998 đã được khép lại với những gì đã trúng và đã trót. Và quan trọng hơn, nó đã khép lại ở chỗ bắt đầu mở ra một mùa giải mới, một mùa giải vượt biên thế kỷ (1998 - 2003).
N.K.T
(TCSH117/11-1998)
Trong xã hội dịch chuyển, Tết với mỗi thế hệ mang giá trị, ý nghĩa khác nhau. Nếu nhiều gia đình trẻ có thể đóng cửa dắt nhau đi du lịch, đón và chơi Tết ở một nơi xa thì với không ít người cao tuổi, ngày Tết vẫn mang giá trị truyền thống bất biến. Tuy nhiên, một điều chung nhất dễ nhận thấy, đó là trong tâm thức mỗi người Việt luôn trân trọng những giá trị linh thiêng ngày Tết cổ truyền.
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 5/4/2016 đã ban hành Luật Báo chí - văn bản pháp lý quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, tổ chức và hoạt động báo chí, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia và có liên quan đến hoạt động báo chí, quản lý nhà nước về báo chí.
Tính đến hết năm 2018, tỉnh Quảng Nam có 379 di tích các loại, phần lớn hư hại xuống cấp do thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thời tiết khắc nghiệt...
ĐẶNG PHÚC
Phía sau những mẫu quảng cáo “cho vay lãi thấp, không cần thế chấp, thủ tục đơn giản, nhanh gọn”, hoạt động “tín dụng đen” đang biến tướng khắp mọi nơi, gây ra nhiều hệ lụy khôn lường cho xã hội. Không dừng lại ở đó, “tín dụng đen” khi núp bóng dưới hình thức công ty dịch vụ tài chính, đang thao túng nhiều phận đời, khiến họ lao đao.
Vừa qua tại Trung tâm Chiếu phim Quốc gia, Hà Nội đã diễn ra hội thảo: “Phim như một di sản văn hoá” do Hội đồng Anh phối hợp với Viện Phim Việt Nam tổ chức. Với nội dung tương lai nào cho việc lưu trữ phim Việt Nam, đặc biệt từ góc nhìn phim tài liệu– một di sản văn hoá của nước nhà.
Tại lễ tổng kết năm 2018, nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam vui mừng thông báo: Kinh phí cho các cấp hội và văn nghệ sĩ vẫn được Nhà nước hỗ trợ.
Trong những năm qua, du lịch cộng đồng (DLCĐ) đã đem đến nhiều tác động tích cực cho xã hội, mang lại các lợi ích về văn hóa, kinh tế và môi trường. Tuy nhiên, do chưa có chiến lược phát triển bài bản, các mô hình du lịch cộng đồng ở Việt Nam vẫn chủ yếu hoạt động theo kiểu manh mún, nhỏ lẻ với chất lượng phục vụ chưa cao.
Nền tảng để xây dựng một xã hội hài hòa, chia sẻ và nhân ái là sự bình đẳng. Tuy nhiên, vẫn còn đó nhiều câu chuyện về sự bất bình đẳng trong xã hội mà nhiếp ảnh vừa là công cụ vừa là không gian để các câu chuyện được kể lên một cách chân thật và truyền cảm hứng nhất.
Trong lịch sử, chưa bao giờ Việt Nam có đội ngũ những người làm lý luận, lịch sử và phê bình mỹ thuật chuyên nghiệp như hiện nay, đóng góp các công trình nghiên cứu mỹ thuật từ giai đoạn cổ đến hiện đại một cách dày dặn, liên tục và xuyên suốt. Tuy nhiên, việc đào tạo nhân lực cho ngành lý luận, lịch sử và phê bình mỹ thuật đang đứng trước nhiều khó khăn.
Trong sự phát triển chung của văn học nghệ thuật (VHNT), lực lượng nghệ sĩ trẻ, nghiên cứu trẻ đang đóng một vai trò rất lớn trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa. Thế nhưng, với các loại hình VHNT truyền thống, dân gian vai trò của những người trẻ hiện nay đang khá mờ nhạt bởi sự chi phối của xã hội.
Việt Nam có 443 mạng xã hội do các danh nghiệp trong nước cung cấp dịch vụ, được Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) cấp phép hoạt động, tuy nhiên, số người tham gia sử dụng không cao.
Đó là khi cảm xúc bỗng chộn rộn, thôi thúc bàn tay cầm cây bút viết nên một đôi câu thơ, dạo vài khúc nhạc hay cọ vẽ những mảng màu. Đó là khi, những văn nghệ sĩ được người đời mến mộ, hẹn nhau làm nên một ấn phẩm ngày Tết. Để ra giêng ngày rộng tháng dài, ai đó sẽ giở cuốn sách thơm mùi mực, nhẩn nha nhấm nháp phong vị ngày xuân…
Một đất nước không có nghệ thuật giống như con người không có tâm hồn, nhưng nghệ thuật ấy mà đóng đinh một chỗ thì chẳng khác nào một tâm hồn cằn khô. Rất may, nhiều nghệ sĩ vẫn miệt mài lao động và chuyển mình sáng tạo.
“Để xây dựng một triết lý giáo dục mang tính thống nhất, rõ ràng đòi hỏi sự tham gia của nhiều người. Song, theo tôi, nền giáo dục cần lấy mục tiêu cuối cùng là phục vụ cuộc sống, tức phải đào tạo ra những con người hành động, sáng tạo, chứ không phải là những con người nói theo khuôn, làm theo mẫu như thực tế đã và đang diễn ra”, Nhà giáo Ưu tú Vũ Thế Khôi nêu ý kiến.
Nhiều chính sách về đào tạo giáo viên sư phạm, các chính sách ưu tiên, ưu đãi cho người học âm nhạc dân tộc, các cải cách và những quyết định xây dựng chương trình mới đưa âm nhạc vào giảng dạy tại bậc Trung học phổ thông là những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của giáo dục âm nhạc nói riêng và sự nghiệp giáo dục đào tạo con người nói chung.
Những năm gần đây, vi phạm bản quyền âm nhạc luôn là một vấn đề làm “nóng” dư luận.
Những năm qua, vấn đề quản lý và bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan được nhà nước đặc biệt quan tâm và thực thi một cách tích cực. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan ở lĩnh vực âm nhạc vẫn liên tục xảy ra các sai phạm với nhiều hình thức và mức độ phức tạp.
Trong những năm gần đây, vi phạm bản quyền tác giả trong lĩnh vực văn học - nghệ thuật đã trở thành một “vấn nạn” làm đau đầu các cơ quan quản lý. Mặc dù đã có những chế tài xử phạt nhưng dường như đây vẫn chưa thực sự là những liều thuốc “đặc trị” để xử lý các vi phạm.
Như đã đưa tin, từ ngày 1 đến 5/11, Liên hoan Ca trù toàn quốc 2018 sẽ diễn ra tại Hà Tĩnh với sự tham gia của 13 tỉnh, thành có di sản ca trù. Với tư cách là Tổng đạo diễn của sự kiện này, nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan đã có những chia sẻ.
Có khi nào bạn lúng túng khó xử khi trong nhà có quá nhiều sách? Sách tự mua. Sách được tặng. Sách tự làm ra. Sách của ngày xưa. Sách mới bây giờ. Theo năm tháng, sách trong nhà cứ chất chồng lên mãi...