Giải Cố Đô qua “lời quê chắp nhặt”

09:10 02/08/2023

NGUYỄN KHẮC THẠCH

Phải giải thích cho mỗi người thích giải
Cần công bằng với những kẻ bằng công.

Nhà thơ Hồng Nhu nhận giải thưởng tác giả cao tuổi Tuyển thơ chọn lọc Hồng Nhu, giải thưởng VHNT Cố đô lần thứ 4 (2003-2008) - Ảnh: Voque.org

Hai câu thơ mang cấu trúc biền ngẫu đó đã làm nên một cặp câu đối mà vế trên thì có khẩu khí của Ban giám khảo còn vế dưới lại buông hoài vọng của các thí sinh. Không biết ai đã sáng tác ra nó và từ bao giờ mà bây giờ, đem vận vào “hậu cảnh” giải Văn học Nghệ thuật Cố Đô lần thứ hai này cũng thấy rất hợp. Mặc dầu không có “ca dao hò vè” như giải Cố Đô 1987 - 1992 nhưng giải lần này, cũng không tránh khỏi lời ong tiếng ve, tò te thế sự. Điều đơn giản là những người thích giải bao giờ cũng nhiều hơn số giải thưởng mà những người thích giải ở đây lại thuộc giới “văn mình vợ người”. Bởi vậy, sẽ là ngây thơ nếu nghĩ rằng, cả 208 tác phẩm công trình dự thi đều xếp giải cao nhất, đồng hạng thì không còn ai, không còn gì để chào xáo nữa nhưng xin thưa liền có đấy, ít nhất cũng có người giãy nảy lên mà rằng: sao tôi cũng chỉ bằng anh kia thôi?!

Phàm những gì đã gọi là thi thì lẽ đương nhiên phải có người được kẻ thua, người cao kẻ thấp. Những ngọt ngào cay cú sau giải âu cũng là lẽ thường tình. Song ở đây, không bàn về khía cạnh nhi nhiên đó mà chỉ xin đề cập khía cạnh “ý chí” của giải.

Trước hết, công bằng mà nói, giải VHNT Cố Đô lần này đã được tiến hành một cách cẩn trọng, khoa học và khách quan hơn lần trước, về cơ bản, gần như nó đã vô hiệu hóa được cơ chế bao cấp “Vừa thi vừa chấm vừa vồ giải luôn”. Việc tổ chức “đấu loại” ba vòng đã hình thành ra “ba nhánh quyền lực” vừa khống chế nhau, vừa bổ sung nhau ngõ hầu làm trong sạch môi trường giải thưởng. Vòng thẩm định được mời những chuyên gia, những tác giả cùng “môn phái” đủ uy tín, đủ trình độ để bình xét từng tác phẩm công trình trong từng lĩnh vực chuyên môn tham dự giải. Có thể nói họ là những chủ thể thẩm mỹ tổng hợp trên các cấp độ thưởng ngoạn, sáng tạo, biểu hiện và định hướng (phê bình). Nhóm thẩm định các chuyên ngành không chỉ làm chức năng tư vấn cho Ban sơ khảo và Hội đồng Nghệ thuật mà họ còn làm công việc “đao phủ” vòng ngoài cho giải. Sau khi “cãi cọ” nhau, họ lại bỏ phiếu bầu và phiếu nhận xét để chọn ra những “đối tượng thẩm mỹ” đẹp hơn, lung linh hơn trong quan hệ đối sánh. Đây được coi là “cửa tử” mà ai vượt được qua nó thì coi như đã chạm cửa “thiên đàng”. Tỷ như Phân hội Mỹ thuật, có 66 tác phẩm ở phía “đầu vào” mà phía “đầu ra” chỉ còn lại 10. Mười tác phẩm ấy đi qua hai cửa nữa cũng chỉ rơi rụng 4 cái và còn 6 tác phẩm tới đích giải thưởng. Bước vào vòng sơ khảo thì tính “mặt trận” của giải lại hiện lên rõ hơn. Ban sơ khảo gồm các thành viên chức sắc đại diện cho các phân, chi hội chuyên ngành. Mỗi chủ thể thẩm mỹ ở đây đều có thể chuyên sâu trong lãnh địa ngành mình còn đối với ngành khác, phần lớn họ chỉ còn trơ trọi tư cách thưởng ngoạn và đành phải “dựa cột mà nghe”. Tất nhiên, cũng có những người có năng lực “đa hệ” để khi liếc qua lĩnh vực chuyên môn khác, họ vẫn “thưa thốt” được. Trong huống cảnh này, vai trò “thuyết khách” của vị đại diện mỗi ngành đều có ý nghĩa “định vị” cho những lá phiếu của các thành viên khác. Tại vòng này, ngoài việc “bớt xén” Ban sơ khảo cũng đã “phúc thẩm” lại một số trường hợp mà vòng dưới còn nan giải để vớt lên trên xem xét tiếp. Càng lên cao thì biên độ thẩm mỹ của đối tượng càng rộng ra và trình độ thẩm định của chủ thể càng cô lập. Mặc dầu các ủy viên Hội đồng Nghệ thuật đều được chọn những người khá tiêu biểu nhưng nó cũng không hoàn toàn và thuần túy chuyên môn. Có vài thành viên do “cơ cấu” nên mặc nhiên, họ ngồi trên ghế giám khảo mà không rành một lĩnh vực chuyên môn nào, nếu không nói là hời hợt và cạn cợt. Tuy rằng, những người này đều là sếp trong giới văn hóa văn nghệ nhưng vì họ chỉ quen “thao tác” bề nổi như bơi trên mặt nước mà “ngọc trai” nghệ thuật lại nằm dưới đáy nên họ dễ bề “ăn ốc nói mò”. Biết đâu những tổn thương này nọ của giải lại có nguyên nhân từ họ. Cũng may mà vị Chủ tịch Hội đồng, mặc dù không thuộc chủ thể đồng sáng tạo nhưng ông là người có bản lĩnh và có tâm, có học và có am hiểu nên đã điều hành cuộc định giá những cái vô giá được xác đáng hơn. Hội đồng Nghệ thuật là cơ quan chuyên môn có quyền lực hợp pháp có thể bác bỏ hoặc lựa chọn bất cứ tác phẩm công trình dự giải nào. Sau khi rà soát lại toàn bộ hồ sơ dự thi rồi tham khảo ý kiến chuyên gia các chuyên ngành, Hội đồng nghệ thuật đã chấp nhận danh sách tác giả, tác phẩm vừa lọt qua hai vòng thẩm định, sơ khảo để quyết định thứ hạng cho mỗi tác phẩm bằng phiếu kín. Đầu vào ở đây là 48 và đầu ra cũng 48 nhưng đã cộng trừ một. Người được cộng đó là tác giả Mai Xuân Hòa, với biện minh có công viết nhiều ca khúc thiếu nhi(!).

Sự “bất cập tình thế” đáng kể hơn cả trong giải Cố Đô là nó đã xóa nhòa ranh giới, đã đánh đồng phẩm trật của 7 ngành nghệ thuật vốn đã được “xã hội hóa” thứ hạng. Chưa nói chuyện đem một ca khúc so với một tập thơ hoặc một bức ảnh so với một cuốn tiểu thuyết nhưng ngay một bức ảnh so với một bức tranh cũng đã khác xa. Cũng như một họa sĩ có thể cầm máy chụp ảnh được nhưng một nhiếp ảnh gia chắc gì đã cầm bút vẽ để vẽ tranh? Vậy nhưng mọi bức ảnh được giải đều có giá trị tặng thưởng cao hơn giá trị hàng hóa của chính nó trong khi giá trị của những bức tranh thì dường như ngược lại. Chưa nói chuyện giá trị hàng hóa của tranh là giá trị độc bản còn giá trị hàng hóa của ảnh là giá trị phiên bản. Còn giá trị ảo của nhiếp ảnh thì đâu có gì cao xa, thâm thúy, đa nghĩa như các nghệ thuật khác và buộc nó phải đứng sau chót, cách biệt mỹ thuật những ba bậc nữa (Kiến trúc, sân khấu và múa). Trong 5 năm qua, ngành hội họa vẫn thăng hoa sự sang trọng của Huế lên nhiều hơn so với nhiếp ảnh. Trong quan hệ quốc tế cũng vậy, hẳn chưa có tác giả nhiếp ảnh nào tại Huế được mời đi triển lãm cá nhân ở nước ngoài như một số họa sĩ đã từng. Thế nhưng tại giải Cố Đô lần này, số lượng cũng như thứ bậc, nhiếp ảnh đã lấn át hội họa, mặc dầu hội viên Mỹ thuật gần gấp đôi hội viên Nhiếp ảnh. Trong các thành viên của Hội Liên hiệp, vị trí tương đương với văn học là Mỹ thuật chứ không phải nhiếp ảnh. Nếu chỉ nhìn bề nổi thì rất dễ “trông gà hóa cuốc”. Cái giải A của nhiếp ảnh thật khó thuyết phục dư luận “tâm phục khẩu phục”. Ngay trong nội bộ nhiếp ảnh cũng đã có những ý kiến bất đồng. Thậm chí, có người còn suy bì rằng, cùng “Mang chuông đi đánh nước người”, cái được giải về thì không được gì, cái không được gì về thì được giải. Đó là trường hợp bức ảnh “Thì thầm” được giải ACCU ở Nhật của Thanh Tú. Nói gì thì nói, nó cũng đã là một tác phẩm nhiếp ảnh có “chứng chỉ” quốc tế. Từ dị nghị đến tò mò rồi lần hỏi đến tận gốc thì thấy, hai bức ảnh được giải A đó, khi xét sơ khảo, bức “đường nét công nghiệp” chỉ được 1/9 phiếu, còn bức “Thời gian còn lại” là 8/9 phiếu, nghĩa là không được 100% phiếu. Đương nhiên, bức 1/9 phiếu đã bị loại nốc ao, còn bức 8/9 tính ra điểm trung bình cũng chỉ xấp xỉ 8, đứng cuối hạng B. Trong khi đó, có một số tác phẩm ngành khác (kể cả Mỹ thuật) đủ 100 phiếu (9/9), điểm trung bình cũng xoay quanh con số “9 nút”, xếp hạng A ở sơ khảo, thế mà kết quả cuối cùng, chúng lại bị đẩy xuống thấp hơn hai bức ảnh kia của Nhiếp ảnh?! Ngoài ra, cũng còn vài trường hợp cắc cớ khác, đó là Âm nhạc có một giải “thiếu âm thanh”, Sân khấu có một giải “thừa kịch tính”. Xin trở lại dẫn chứng giải đề tài của tác giả Mai Xuân Hòa. Theo thông báo (kiêm thể lệ) về giải thưởng VHNT Cố Đô lần thứ hai của Tỉnh thì giải “chỉ xét những TPCT được chính tác giả, nhóm tác giả đăng kí dự xét thưởng”. Như vậy là đã quá rõ ràng, những tác phẩm mà tác giả không gửi đến thì không thể xét, càng không thể có giải. Khi tác giả Mai Xuân Hòa gửi chùm ca khúc khác (viết cho người lớn) đã bị loại từ vòng thẩm định và Ban sơ khảo thấy yếu cũng không đề nghị lên, vậy tại sao Hội đồng nghệ thuật lại xét công về ca khúc thiếu nhi, về tác phẩm không gửi? Lấy đâu ra mà xét? Hay xét theo trí tưởng tượng? Xét một loại âm nhạc không có âm thanh?! Trên thực tế, Mai Xuân Hòa cũng có một tập ca khúc viết cho đề tài thiếu nhi nhưng nó ra đời sau mốc xét giải Cố Đô lần này, không hợp lệ không thể dự thi. Nhờ sự bảo kê của ai đó, nó đã bất chấp luật lệ để giành lấy một giải thưởng. Chưa hết, vì sau mốc lần này nên tác giả có quyền dự giải Cố Đô lần thứ ba và sẽ dễ dàng được giải vì đề tài. Khi cần, người ta sẽ khai thác đến cùng, kể cả sự lạm dụng. Vô hình trung, một tác phẩm được dự giải Cố Đô 2 lần và 2 lần được giải! Chính điều này đã xảy ra với kịch sĩ Ngọc Tranh. Theo quyết định số 391 QĐ/UBND ngày 1- 2-1994 của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Ngọc Tranh đã được giải hạng B với kịch bản “Cha con người hát rong”. Thế mà tại giải lần này, Ngọc Tranh lại dẫn độ “Cha con người hát rong” vào hát và “hái giải” một lần nữa. Thật đúng là thừa kịch tính!

Không biết những điều trông thấy mà... đau con mắt trong giải Cố Đô như thế có làm phật lòng các bao công nghệ thuật?

Còn 160 tác phẩm công trình dự thi mà không được đăng khoa đều có những nguyên nhân riêng nhưng chung qui lại là... chờ keo khác. Cá biệt, cũng có trường hợp phạm qui có thể chỉ ra được. Ví dụ, một đạo diễn đã không nắm được tiêu chí của giải rồi bê luôn một chương trình ca múa nhạc dàn dựng cho đề tài tỉnh bạn về dự giải Cố Đô. Trong số tác phẩm âm nhạc dự thi có 2 bản giao hưởng “Người con gái Sông Hàn” của Khắc Yên và “Ký ức cố đô” của Vĩnh Phúc. Vì có chất lượng tương đương và chỉ được chọn một thì tất nhiên giải phải khuyến khích cho đề tài cố đô. Hoặc có những chuyên ngành do đặc điểm riêng, người ta qui định gửi một tác phẩm tự chọn thì tác giả lại gửi đến hai. Rồi cũng được chấp nhận vào “tỉ thí” nhưng trước hết, hai tác phẩm đó phải tự chia phiếu cho nhau, bởi lẽ trong Ban giám khảo, người ủng hộ cái này, người lại chọn cái kia, rốt cục cả hai đều bị loại vì thiếu phiếu. Động thái ấy có thể do tác giả bị “phân liệt”, hoặc thiếu tự tin, hoặc quá tự tin. Nếu là quá tự tin thì sự tự tin ấy hết sức ngây ngô. Làm gì có chuyện một thí sinh thi người đẹp lại vừa đoạt hoa hậu, vừa đoạt á hậu trong cùng một lần thi?

Dù sao, giải Cố Đô cũng mang tính niên hạn (5 năm 1 lần) nên đơn vị để xét là tác-giả-tác-phẩm chứ không xét thuần túy tác phẩm như những cuộc thi khác. Do vậy, trường hợp chất lượng đơn vị tác phẩm ngang ngửa nhau như bức “Hoài tưởng” của sinh viên Lê Ngọc Tường và bức “Trò chơi” của thầy Nguyễn Thiện Đức thì hẳn nhiên tác giả thầy sẽ được xếp giải cao hơn tác giả trò. Suy cho cùng, đấy cũng là một trật tự khả kiến của sự công bằng, hiểu theo nghĩa phải đạo. Còn chỗ mà các “tân khoa” so đo “cần công bằng với những kẻ bằng công” lại thuộc về “trường đoạn” khác. Trong giới văn nghệ, có một “quy luật đặc thù” là không giữ bí mật làm gì cho mệt! Bởi vậy, hầu như mọi người dính giải, họ đều biết được thứ hạng giải của mình qua “thị thực” phiếu kín của Hội đồng nghệ thuật trước khi bị “Sự cố Kinh phí”. Chỉ vì kẹt tiền mà một số giải phải “hạ cấp” cứ y như chúng bị thi hành kỷ luật vậy. Điều đó đã “quấy rối” cơ chế tâm lý những đối tượng vốn đã bằng người rồi lại phải thua người. Riêng hai trong số năm vị thành viên Hội đồng nghệ thuật dự giải, giải của họ không những không bị hạ mà còn “lên giá” hơn 1 đến 2 bậc so với Ban sơ khảo đề nghị! Xem ra, sự công bằng được thu lại trong một không gian hẹp trên kênh thượng tầng kiến trúc cũng đã lắm nhiêu khê. Sự nhiêu khê ấy chính là “sản phẩm thặng dư” của ý chí phi thiền. Song, nhìn lại một cách tổng thể về giải, nếu chỉ “tỉa tót” mặt thiếu công bằng không thôi thì cũng bị rơi vào sự thiếu công bằng nốt. Thực ra, cái được ở đây vẫn lớn hơn cái chưa được. Ngoài “mặt bằng” về sự công bằng nói chung, giải lần này còn thể hiện được cả sự công bằng nhân đạocông bằng cao thượng vốn có trong tâm thức người Huế. Đó là tập “Thơ lục bát” của nhà thơ quá cố Hải Bằng, được trao giải cao hơn kết quả thẩm định chất lượng tác phẩm. Đó là sự Fair play với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, tác giả không còn là công dân của Huế nữa vẫn không bị coi là “ngoại tộc”. Tập thơ “Đồng dao cho người lớn” của anh không những được giải mà còn được trao giải cao nhất và sang trọng nhất vì nó là Thơ.

Vậy là giải VHNT Cố Đô 1993 - 1998 đã được khép lại với những gì đã trúng và đã trót. Và quan trọng hơn, nó đã khép lại ở chỗ bắt đầu mở ra một mùa giải mới, một mùa giải vượt biên thế kỷ (1998 - 2003).

N.K.T
(TCSH117/11-1998)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Nếp nhà lãng đãng khói hương như chiếc cầu nối với quá khứ. Hồn người tĩnh tại, thong dong hòa quyện miền tâm linh thăm thẳm. Nhưng không phải dịp Tết đến ta mới thấy nhẹ nhàng. Bất cứ khi nào đứng trước ban thờ tiên tổ, bao bộn bề, lo toan đều tự nhiên rũ bỏ, để gia tâm bảo vệ những gì tốt đẹp của tinh thần.

  • Vừa qua, một số cá thể thiên nga đã được thả vào hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Việc làm này đã gây nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận. Dù sau đó, các cá thể thiên nga đã được di chuyển đến một địa điểm khác song từ sự việc này nhiều người tỏ ra băn khoăn bởi hồ Hoàn Kiếm vốn được coi là nơi linh thiêng, hơn nữa hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn còn là Di tích quốc gia đặc biệt.

  • Khi toàn cầu hóa, nhiều người mới ý thức rõ hơn tầm quan trọng của sáng tạo. Nhiều quốc gia coi sáng tạo là nguồn lực chính trong nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, bên cạnh động lực cũng tạo ra nhiều thách thức đối với khả năng sáng tạo của con người.

  • “Hiện thực” của đời sống hiện ra trước cái nhìn của chúng ta luôn luôn là một hỗn hợp, một nồi súp lẩu của “thực tế” và “tri nhận”, không tách bạch, và không dễ tách bạch được.

  • Nuôi dưỡng tâm hồn ham đọc sách từ bé cho con, sẽ giúp con dễ dàng vượt qua được giai đoạn khủng hoảng của tuổi mới lớn, giúp con mạnh mẽ đối mặt với những thay đổi của bản thân, và sóng gió của cuộc đời.

  • Để không bị lãng quên giữa các loại hình nghệ thuật giải trí hiện đại, sân khấu cải lương nói riêng, nghệ thuật truyền thống nói chung, đang tìm cách chuyển mình, dần tìm lại chỗ đứng. Trong quá trình tìm hướng đi mới ấy, các nghệ sĩ không hoàn toàn chạy theo thị hiếu một cách dễ dãi mà bỏ qua yếu tố nghệ thuật.

  • Một năm qua, sự xuất hiện của các sàn đấu giá nghệ thuật đã góp phần thúc đẩy hội họa phát triển, tạo ra thị trường lành mạnh thu hút nhà đầu tư cũng như giới mộ điệu. Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ.

  • Văn hóa là sản phẩm, đồng thời là điều kiện, động lực, phương thức tồn tại và phát triển của một đất nước. Văn hóa có sự phát triển tự thân nhưng cũng có cả sự tiếp nhận bên ngoài. Theo các chuyên gia, trong khi bảng giá trị của người Việt xuất hiện một số hiện tượng lệch lạc, cần nghiên cứu xây dựng hệ thống chuẩn mực xã hội, từ đó xác định khuôn khổ để trở lại chân giá trị.

  • Khi các hoạt động diễn xướng dân gian dần tách khỏi, đình làng dường như đánh mất một phần linh hồn, còn nghệ thuật truyền thống cũng thiếu khí vị. Theo NSƯT Đoàn Thanh Bình, những buổi diễn của Giáo phường Đình làng Việt một năm qua chính là hành trình để mỗi người được về lại ngày xưa, đắm mình trong đời sống văn hóa cộng đồng.

  • Thêm một lần mổ xẻ về thực trạng của lý luận phê bình sân khấu hiện nay, các nhà chuyên môn, tác giả đều cho rằng lý luận phê bình của sân khấu nước nhà rất thiếu, yếu và luôn bị các nhà hát… phớt lờ.

  • Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát đã chia sẻ đầy trăn trở tại Hội thảo "Liên hoan phim Việt Nam trong sự nghiệp phát triển điện ảnh dân tộc" vừa qua ở Đà Nẵng.

  • Sáng 16/11, Hội Di sản văn hóa Thăng Long - Hà Nội đã tổ chức Hội thảo khoa học “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu trên địa bàn Hà Nội - nhận diện, bảo tồn và phát triển” tại đình Hào Nam. Hội thảo đã thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, quản lý văn hóa - xã hội, các nghệ nhân dân, đồng đền, thủ nhang, thanh đồng…

  • Gần đây, một số trường ngoài công lập tăng học phí cao gây phản ứng của phụ huynh và bất bình dư luận. Đáng chú ý là theo Luật Giáo dục 2005, các cơ quan quản lý nhà nước không có thẩm quyền quản lý việc thu chi của các trường ngoài công lập. Các trường này hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và ngành giáo dục chỉ giám sát về chỉ tiêu tuyển sinh, chương trình đào tạo.

  • Là di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng Quốc gia từ năm 1991, nhưng những giá trị lịch sử, yếu tố nguyên gốc tại chùa Khúc Thủy, thôn Khúc Thủy (xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội) đã bị xâm phạm nghiêm trọng.

  • Không phải ai sinh ra cũng đã có thẩm mỹ âm nhạc mà nó được hình thành gắn với không gian sống, điều kiện thụ hưởng. Theo nhạc sĩ Quốc Trung, hiện nay ở Việt Nam hầu hết các chương trình nghệ thuật chỉ trình diễn một vài thể loại nhạc, bó hẹp sự lựa chọn của khán giả. Nếu mọi người tự mở rộng, bỏ qua rào cản để thử nghiệm nhiều thể loại nhạc khác nhau, sẽ phát hiện ra nhiều thứ mới mẻ, thú vị.

  • Cuộc sống của họ ra sao, quan niệm về tình yêu, hạnh phúc, nỗi buồn, suy nghĩ về truyền thống, hiện tại và tương lai như thế nào? Để tìm ra câu trả lời, đạo diễn người Hà Lan Manouchehr Abrontan đã đi từ Nam ra Bắc, phỏng vấn hàng trăm phụ nữ ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, vai trò khác nhau. Và “Việt Nam tim tôi” ra đời như tình ca về vẻ đẹp, sức mạnh của phụ nữ Việt.

  • “Học sinh như bó đuốc, nhiệm vụ của tôi là truyền lửa cho bó đuốc. Nhưng trước khi truyền lửa được thì giáo viên phải là người yêu thích, say mê tìm tòi, chắt lọc cái hay trong môn học, khơi gợi cho các em tự tìm tòi, tự phát hiện ra vấn đề”. Đó là chia sẻ của thầy giáo Lê Quang Nhân, Trường THPT chuyên Nguyễn Du, Đắk Lắk tại Lễ tuyên dương gương Người tốt việc tốt đổi mới sáng tạo trong dạy và học năm học 2016 - 2017 do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD - ĐT) tổ chức sáng 18.10.

  • Trong bối cảnh cần khẳng định văn hóa doanh nghiệp Việt Nam, việc tìm ý tưởng sáng tạo từ “Truyện Kiều” được cho là con đường ngắn nhất. Như GS. Phong Lê, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam nhận định: “Doanh nhân dùng chữ tâm ấy để tiến là phúc cho họ, cũng là phúc cho xã hội vậy”.

  • Trước các phương tiện nghe nhìn, sách đang trở nên yếu thế hơn. Người lớn cũng ngại đọc sách, còn trẻ em thì thích xem iPad và chơi game. Làm sao để tạo được thói quen đọc sách cho trẻ, qua đó, dần nuôi dưỡng tâm hồn các em bằng sách?

  • Chú trọng phát triển văn hóa đọc tại vùng nông thôn, miền núi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Tuy nhiên, văn hoá đọc ở trẻ em nói riêng sẽ không thể phát triển rộng lớn nếu hệ thống phát hành sách chỉ tập trung ở thành phố và trẻ em nông thôn, miền núi vẫn còn “đói sách”.