NGUYỄN KHẮC THẠCH
Phải giải thích cho mỗi người thích giải
Cần công bằng với những kẻ bằng công.
Nhà thơ Hồng Nhu nhận giải thưởng tác giả cao tuổi Tuyển thơ chọn lọc Hồng Nhu, giải thưởng VHNT Cố đô lần thứ 4 (2003-2008) - Ảnh: Voque.org
Hai câu thơ mang cấu trúc biền ngẫu đó đã làm nên một cặp câu đối mà vế trên thì có khẩu khí của Ban giám khảo còn vế dưới lại buông hoài vọng của các thí sinh. Không biết ai đã sáng tác ra nó và từ bao giờ mà bây giờ, đem vận vào “hậu cảnh” giải Văn học Nghệ thuật Cố Đô lần thứ hai này cũng thấy rất hợp. Mặc dầu không có “ca dao hò vè” như giải Cố Đô 1987 - 1992 nhưng giải lần này, cũng không tránh khỏi lời ong tiếng ve, tò te thế sự. Điều đơn giản là những người thích giải bao giờ cũng nhiều hơn số giải thưởng mà những người thích giải ở đây lại thuộc giới “văn mình vợ người”. Bởi vậy, sẽ là ngây thơ nếu nghĩ rằng, cả 208 tác phẩm công trình dự thi đều xếp giải cao nhất, đồng hạng thì không còn ai, không còn gì để chào xáo nữa nhưng xin thưa liền có đấy, ít nhất cũng có người giãy nảy lên mà rằng: sao tôi cũng chỉ bằng anh kia thôi?!
Phàm những gì đã gọi là thi thì lẽ đương nhiên phải có người được kẻ thua, người cao kẻ thấp. Những ngọt ngào cay cú sau giải âu cũng là lẽ thường tình. Song ở đây, không bàn về khía cạnh nhi nhiên đó mà chỉ xin đề cập khía cạnh “ý chí” của giải.
Trước hết, công bằng mà nói, giải VHNT Cố Đô lần này đã được tiến hành một cách cẩn trọng, khoa học và khách quan hơn lần trước, về cơ bản, gần như nó đã vô hiệu hóa được cơ chế bao cấp “Vừa thi vừa chấm vừa vồ giải luôn”. Việc tổ chức “đấu loại” ba vòng đã hình thành ra “ba nhánh quyền lực” vừa khống chế nhau, vừa bổ sung nhau ngõ hầu làm trong sạch môi trường giải thưởng. Vòng thẩm định được mời những chuyên gia, những tác giả cùng “môn phái” đủ uy tín, đủ trình độ để bình xét từng tác phẩm công trình trong từng lĩnh vực chuyên môn tham dự giải. Có thể nói họ là những chủ thể thẩm mỹ tổng hợp trên các cấp độ thưởng ngoạn, sáng tạo, biểu hiện và định hướng (phê bình). Nhóm thẩm định các chuyên ngành không chỉ làm chức năng tư vấn cho Ban sơ khảo và Hội đồng Nghệ thuật mà họ còn làm công việc “đao phủ” vòng ngoài cho giải. Sau khi “cãi cọ” nhau, họ lại bỏ phiếu bầu và phiếu nhận xét để chọn ra những “đối tượng thẩm mỹ” đẹp hơn, lung linh hơn trong quan hệ đối sánh. Đây được coi là “cửa tử” mà ai vượt được qua nó thì coi như đã chạm cửa “thiên đàng”. Tỷ như Phân hội Mỹ thuật, có 66 tác phẩm ở phía “đầu vào” mà phía “đầu ra” chỉ còn lại 10. Mười tác phẩm ấy đi qua hai cửa nữa cũng chỉ rơi rụng 4 cái và còn 6 tác phẩm tới đích giải thưởng. Bước vào vòng sơ khảo thì tính “mặt trận” của giải lại hiện lên rõ hơn. Ban sơ khảo gồm các thành viên chức sắc đại diện cho các phân, chi hội chuyên ngành. Mỗi chủ thể thẩm mỹ ở đây đều có thể chuyên sâu trong lãnh địa ngành mình còn đối với ngành khác, phần lớn họ chỉ còn trơ trọi tư cách thưởng ngoạn và đành phải “dựa cột mà nghe”. Tất nhiên, cũng có những người có năng lực “đa hệ” để khi liếc qua lĩnh vực chuyên môn khác, họ vẫn “thưa thốt” được. Trong huống cảnh này, vai trò “thuyết khách” của vị đại diện mỗi ngành đều có ý nghĩa “định vị” cho những lá phiếu của các thành viên khác. Tại vòng này, ngoài việc “bớt xén” Ban sơ khảo cũng đã “phúc thẩm” lại một số trường hợp mà vòng dưới còn nan giải để vớt lên trên xem xét tiếp. Càng lên cao thì biên độ thẩm mỹ của đối tượng càng rộng ra và trình độ thẩm định của chủ thể càng cô lập. Mặc dầu các ủy viên Hội đồng Nghệ thuật đều được chọn những người khá tiêu biểu nhưng nó cũng không hoàn toàn và thuần túy chuyên môn. Có vài thành viên do “cơ cấu” nên mặc nhiên, họ ngồi trên ghế giám khảo mà không rành một lĩnh vực chuyên môn nào, nếu không nói là hời hợt và cạn cợt. Tuy rằng, những người này đều là sếp trong giới văn hóa văn nghệ nhưng vì họ chỉ quen “thao tác” bề nổi như bơi trên mặt nước mà “ngọc trai” nghệ thuật lại nằm dưới đáy nên họ dễ bề “ăn ốc nói mò”. Biết đâu những tổn thương này nọ của giải lại có nguyên nhân từ họ. Cũng may mà vị Chủ tịch Hội đồng, mặc dù không thuộc chủ thể đồng sáng tạo nhưng ông là người có bản lĩnh và có tâm, có học và có am hiểu nên đã điều hành cuộc định giá những cái vô giá được xác đáng hơn. Hội đồng Nghệ thuật là cơ quan chuyên môn có quyền lực hợp pháp có thể bác bỏ hoặc lựa chọn bất cứ tác phẩm công trình dự giải nào. Sau khi rà soát lại toàn bộ hồ sơ dự thi rồi tham khảo ý kiến chuyên gia các chuyên ngành, Hội đồng nghệ thuật đã chấp nhận danh sách tác giả, tác phẩm vừa lọt qua hai vòng thẩm định, sơ khảo để quyết định thứ hạng cho mỗi tác phẩm bằng phiếu kín. Đầu vào ở đây là 48 và đầu ra cũng 48 nhưng đã cộng trừ một. Người được cộng đó là tác giả Mai Xuân Hòa, với biện minh có công viết nhiều ca khúc thiếu nhi(!).
Sự “bất cập tình thế” đáng kể hơn cả trong giải Cố Đô là nó đã xóa nhòa ranh giới, đã đánh đồng phẩm trật của 7 ngành nghệ thuật vốn đã được “xã hội hóa” thứ hạng. Chưa nói chuyện đem một ca khúc so với một tập thơ hoặc một bức ảnh so với một cuốn tiểu thuyết nhưng ngay một bức ảnh so với một bức tranh cũng đã khác xa. Cũng như một họa sĩ có thể cầm máy chụp ảnh được nhưng một nhiếp ảnh gia chắc gì đã cầm bút vẽ để vẽ tranh? Vậy nhưng mọi bức ảnh được giải đều có giá trị tặng thưởng cao hơn giá trị hàng hóa của chính nó trong khi giá trị của những bức tranh thì dường như ngược lại. Chưa nói chuyện giá trị hàng hóa của tranh là giá trị độc bản còn giá trị hàng hóa của ảnh là giá trị phiên bản. Còn giá trị ảo của nhiếp ảnh thì đâu có gì cao xa, thâm thúy, đa nghĩa như các nghệ thuật khác và buộc nó phải đứng sau chót, cách biệt mỹ thuật những ba bậc nữa (Kiến trúc, sân khấu và múa). Trong 5 năm qua, ngành hội họa vẫn thăng hoa sự sang trọng của Huế lên nhiều hơn so với nhiếp ảnh. Trong quan hệ quốc tế cũng vậy, hẳn chưa có tác giả nhiếp ảnh nào tại Huế được mời đi triển lãm cá nhân ở nước ngoài như một số họa sĩ đã từng. Thế nhưng tại giải Cố Đô lần này, số lượng cũng như thứ bậc, nhiếp ảnh đã lấn át hội họa, mặc dầu hội viên Mỹ thuật gần gấp đôi hội viên Nhiếp ảnh. Trong các thành viên của Hội Liên hiệp, vị trí tương đương với văn học là Mỹ thuật chứ không phải nhiếp ảnh. Nếu chỉ nhìn bề nổi thì rất dễ “trông gà hóa cuốc”. Cái giải A của nhiếp ảnh thật khó thuyết phục dư luận “tâm phục khẩu phục”. Ngay trong nội bộ nhiếp ảnh cũng đã có những ý kiến bất đồng. Thậm chí, có người còn suy bì rằng, cùng “Mang chuông đi đánh nước người”, cái được giải về thì không được gì, cái không được gì về thì được giải. Đó là trường hợp bức ảnh “Thì thầm” được giải ACCU ở Nhật của Thanh Tú. Nói gì thì nói, nó cũng đã là một tác phẩm nhiếp ảnh có “chứng chỉ” quốc tế. Từ dị nghị đến tò mò rồi lần hỏi đến tận gốc thì thấy, hai bức ảnh được giải A đó, khi xét sơ khảo, bức “đường nét công nghiệp” chỉ được 1/9 phiếu, còn bức “Thời gian còn lại” là 8/9 phiếu, nghĩa là không được 100% phiếu. Đương nhiên, bức 1/9 phiếu đã bị loại nốc ao, còn bức 8/9 tính ra điểm trung bình cũng chỉ xấp xỉ 8, đứng cuối hạng B. Trong khi đó, có một số tác phẩm ngành khác (kể cả Mỹ thuật) đủ 100 phiếu (9/9), điểm trung bình cũng xoay quanh con số “9 nút”, xếp hạng A ở sơ khảo, thế mà kết quả cuối cùng, chúng lại bị đẩy xuống thấp hơn hai bức ảnh kia của Nhiếp ảnh?! Ngoài ra, cũng còn vài trường hợp cắc cớ khác, đó là Âm nhạc có một giải “thiếu âm thanh”, Sân khấu có một giải “thừa kịch tính”. Xin trở lại dẫn chứng giải đề tài của tác giả Mai Xuân Hòa. Theo thông báo (kiêm thể lệ) về giải thưởng VHNT Cố Đô lần thứ hai của Tỉnh thì giải “chỉ xét những TPCT được chính tác giả, nhóm tác giả đăng kí dự xét thưởng”. Như vậy là đã quá rõ ràng, những tác phẩm mà tác giả không gửi đến thì không thể xét, càng không thể có giải. Khi tác giả Mai Xuân Hòa gửi chùm ca khúc khác (viết cho người lớn) đã bị loại từ vòng thẩm định và Ban sơ khảo thấy yếu cũng không đề nghị lên, vậy tại sao Hội đồng nghệ thuật lại xét công về ca khúc thiếu nhi, về tác phẩm không gửi? Lấy đâu ra mà xét? Hay xét theo trí tưởng tượng? Xét một loại âm nhạc không có âm thanh?! Trên thực tế, Mai Xuân Hòa cũng có một tập ca khúc viết cho đề tài thiếu nhi nhưng nó ra đời sau mốc xét giải Cố Đô lần này, không hợp lệ không thể dự thi. Nhờ sự bảo kê của ai đó, nó đã bất chấp luật lệ để giành lấy một giải thưởng. Chưa hết, vì sau mốc lần này nên tác giả có quyền dự giải Cố Đô lần thứ ba và sẽ dễ dàng được giải vì đề tài. Khi cần, người ta sẽ khai thác đến cùng, kể cả sự lạm dụng. Vô hình trung, một tác phẩm được dự giải Cố Đô 2 lần và 2 lần được giải! Chính điều này đã xảy ra với kịch sĩ Ngọc Tranh. Theo quyết định số 391 QĐ/UBND ngày 1- 2-1994 của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Ngọc Tranh đã được giải hạng B với kịch bản “Cha con người hát rong”. Thế mà tại giải lần này, Ngọc Tranh lại dẫn độ “Cha con người hát rong” vào hát và “hái giải” một lần nữa. Thật đúng là thừa kịch tính!
Không biết những điều trông thấy mà... đau con mắt trong giải Cố Đô như thế có làm phật lòng các bao công nghệ thuật?
Còn 160 tác phẩm công trình dự thi mà không được đăng khoa đều có những nguyên nhân riêng nhưng chung qui lại là... chờ keo khác. Cá biệt, cũng có trường hợp phạm qui có thể chỉ ra được. Ví dụ, một đạo diễn đã không nắm được tiêu chí của giải rồi bê luôn một chương trình ca múa nhạc dàn dựng cho đề tài tỉnh bạn về dự giải Cố Đô. Trong số tác phẩm âm nhạc dự thi có 2 bản giao hưởng “Người con gái Sông Hàn” của Khắc Yên và “Ký ức cố đô” của Vĩnh Phúc. Vì có chất lượng tương đương và chỉ được chọn một thì tất nhiên giải phải khuyến khích cho đề tài cố đô. Hoặc có những chuyên ngành do đặc điểm riêng, người ta qui định gửi một tác phẩm tự chọn thì tác giả lại gửi đến hai. Rồi cũng được chấp nhận vào “tỉ thí” nhưng trước hết, hai tác phẩm đó phải tự chia phiếu cho nhau, bởi lẽ trong Ban giám khảo, người ủng hộ cái này, người lại chọn cái kia, rốt cục cả hai đều bị loại vì thiếu phiếu. Động thái ấy có thể do tác giả bị “phân liệt”, hoặc thiếu tự tin, hoặc quá tự tin. Nếu là quá tự tin thì sự tự tin ấy hết sức ngây ngô. Làm gì có chuyện một thí sinh thi người đẹp lại vừa đoạt hoa hậu, vừa đoạt á hậu trong cùng một lần thi?
Dù sao, giải Cố Đô cũng mang tính niên hạn (5 năm 1 lần) nên đơn vị để xét là tác-giả-tác-phẩm chứ không xét thuần túy tác phẩm như những cuộc thi khác. Do vậy, trường hợp chất lượng đơn vị tác phẩm ngang ngửa nhau như bức “Hoài tưởng” của sinh viên Lê Ngọc Tường và bức “Trò chơi” của thầy Nguyễn Thiện Đức thì hẳn nhiên tác giả thầy sẽ được xếp giải cao hơn tác giả trò. Suy cho cùng, đấy cũng là một trật tự khả kiến của sự công bằng, hiểu theo nghĩa phải đạo. Còn chỗ mà các “tân khoa” so đo “cần công bằng với những kẻ bằng công” lại thuộc về “trường đoạn” khác. Trong giới văn nghệ, có một “quy luật đặc thù” là không giữ bí mật làm gì cho mệt! Bởi vậy, hầu như mọi người dính giải, họ đều biết được thứ hạng giải của mình qua “thị thực” phiếu kín của Hội đồng nghệ thuật trước khi bị “Sự cố Kinh phí”. Chỉ vì kẹt tiền mà một số giải phải “hạ cấp” cứ y như chúng bị thi hành kỷ luật vậy. Điều đó đã “quấy rối” cơ chế tâm lý những đối tượng vốn đã bằng người rồi lại phải thua người. Riêng hai trong số năm vị thành viên Hội đồng nghệ thuật dự giải, giải của họ không những không bị hạ mà còn “lên giá” hơn 1 đến 2 bậc so với Ban sơ khảo đề nghị! Xem ra, sự công bằng được thu lại trong một không gian hẹp trên kênh thượng tầng kiến trúc cũng đã lắm nhiêu khê. Sự nhiêu khê ấy chính là “sản phẩm thặng dư” của ý chí phi thiền. Song, nhìn lại một cách tổng thể về giải, nếu chỉ “tỉa tót” mặt thiếu công bằng không thôi thì cũng bị rơi vào sự thiếu công bằng nốt. Thực ra, cái được ở đây vẫn lớn hơn cái chưa được. Ngoài “mặt bằng” về sự công bằng nói chung, giải lần này còn thể hiện được cả sự công bằng nhân đạo và công bằng cao thượng vốn có trong tâm thức người Huế. Đó là tập “Thơ lục bát” của nhà thơ quá cố Hải Bằng, được trao giải cao hơn kết quả thẩm định chất lượng tác phẩm. Đó là sự Fair play với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, tác giả không còn là công dân của Huế nữa vẫn không bị coi là “ngoại tộc”. Tập thơ “Đồng dao cho người lớn” của anh không những được giải mà còn được trao giải cao nhất và sang trọng nhất vì nó là Thơ.
Vậy là giải VHNT Cố Đô 1993 - 1998 đã được khép lại với những gì đã trúng và đã trót. Và quan trọng hơn, nó đã khép lại ở chỗ bắt đầu mở ra một mùa giải mới, một mùa giải vượt biên thế kỷ (1998 - 2003).
N.K.T
(TCSH117/11-1998)
Giữa những dòng tin với gam màu xám trên các kênh thông tin hàng ngày, tôi dừng lại ở những dòng chữ ấm áp tình người: một cụ ông ở Kon Tum, năm nay đã 90 tuổi, bán lạc làm từ thiện. Ông là Lưu Bình, ở P.Quyết Thắng, TP.Kon Tum.
Nghiêm Thuần (Yanchun), 52 tuổi, người Vũ Hán. Chị bị nhiễm virus Corona chủng mới (2019-nCoV), giống như vài chục ngàn người khác ở Hồ Bắc. Giữa tâm chấn đại dịch vốn dĩ trở thành cơn bão quét qua nhiều tỉnh thành Trung Quốc, Vũ Hán bị phong tỏa, Nghiêm Thuần không thể tìm ra bất kỳ một bệnh viện nào nhận chữa trị chị, tất cả đều quá tải. Nghiêm Thuần quyết định tự cách ly tại nhà để tìm cách kháng bệnh.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa, nhiều nguồn lực đã được đầu tư cho lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Tuy nhiên, do nhận thức của xã hội còn hạn chế, cùng những yếu kém trong cách làm của các đơn vị văn hóa, nghệ thuật, việc thực hiện chủ trương gặp nhiều rào cản.
Trong Tết Nguyên đán 2020, nhiều nhà xuất bản, công ty sách đã cho ra mắt, tái bản nhiều tựa sách Tết đặc sắc, đem đến cho bạn đọc những thông tin, kiến thức quý giá về phong tục, văn hóa Việt gắn với Tết cổ truyền của dân tộc, gắn với những hồi ức, kỷ niệm thời ấu thơ của nhiều thế hệ... Với tính hấp dẫn đó đã giúp sách Tết tạo được sức hút trong lòng bạn đọc.
NGUYỄN THANH TÂM
Báo tết - báo xuân đã trở thành một hoạt động thường niên mỗi dịp tết đến xuân về của những người làm báo Việt Nam. Dịp ấy, người đọc cũng háo hức chờ đón những số báo rực rỡ, tươi tắn, bừng lên như sắc hoa đón chào xuân ấm.
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh” thường được nhắc đến như biểu tượng của Tết Việt. Thực tế, Tết ở các vùng miền trên cả nước phong phú, đa dạng hơn, trải qua các thời kỳ lịch sử lại thay đổi nhiều. Tuy nhiên, giá trị căn cốt và thiêng liêng của Tết thì giống nhau, và vẫn đang được lưu giữ, tiếp nối qua thời gian.
Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019 - 2024 vừa khép lại trong niềm vui vì đã chọn ra được tân Chủ tịch là NSND Thúy Mùi – vị nữ Chủ tịch đầu tiên của hội.
Nhiều năm qua, vì thiếu đội ngũ những người sáng tác - tác giả, soạn giả giỏi nghề nên sân khấu TPHCM ở cả lĩnh vực cải lương lẫn kịch nói cứ ngày một khan hiếm kịch bản chất lượng. Đặc biệt, trong năm 2019, hàng loạt tác phẩm cũ (ra đời cách nay hàng chục năm) lần lượt được tái dựng, càng cho thấy sự khủng hoảng trầm trọng của vấn đề kịch bản sân khấu.
Trong cuộc sống hiện đại, khi âm nhạc điện tử đang phát triển mạnh mẽ thì việc kế thừa và phát triển âm nhạc dân tộc, đặc biệt là nghệ thuật đàn bầu Việt Nam, đang đặt ra nhiều thách thức.
Internet, việc số hóa sách và sự ra đời của những công cụ đọc sách điện tử, chính những cái mới ấy, cùng sự phổ biến chúng trong đời sống một cách rất nhanh chóng, đã buộc người ta phải nêu câu hỏi: Liệu đã sắp đến lúc sách giấy “cáo chung”?
Lần đầu xuất bản năm 1942 tại Nhà in Lê Cường, “Giáo dục nhi đồng” của nữ tác giả Đạm Phương Nữ Sử trình bày những quan điểm sâu sắc về tầm quan trọng của giáo dục gia đình đối với sự trưởng thành của trẻ nhỏ, xa hơn là đối với sự cường thịnh của một dân tộc.
ĐẶNG NGỌC NGUYÊN
Chỉ trong vòng ba mươi năm sau đổi mới đất nước 1986, giao thông Việt Nam đã phát triển vượt bậc. Từ chỗ trên đường cái quan xe đạp nhiều hơn xe máy, giờ chủ yếu lại là ô tô xuôi ngược.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà thiết bị điện tử kết nối internet đã trở thành công cụ tìm kiếm, tra cứu, làm việc, học tập, giải trí... trở nên rất phổ biến. Câu hỏi đặt ra là con người đang kết nối với con người, với thế giới như thế nào? Bộ sách “Chúng vận hành như thế nào?” của NXB Kim Đồng có thể là một gợi ý dành cho các bạn đọc nhỏ tuổi.
NGUYỄN QUANG PHƯỚC
Công cuộc chống tham nhũng do Đảng khởi xướng và thực hiện đang ngày càng quyết liệt, công cuộc “đốt lò” hiện nay đã và đang nhận được sự ủng hộ của cả hệ thống chính trị, của toàn thể đồng bào và sự hợp tác chặt chẽ từ quốc tế. Chống tham nhũng quyết liệt, là cách toàn Đảng thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: không ngừng xây dựng, chỉnh đốn cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Khi được “Lòng Dân” tin tưởng, khi nhân dân ủng hộ và tham gia thì vạn sự tất thành.
Sau 10 năm thực hiện hai tiêu chí văn hóa thuộc Bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới, cơ sở vật chất, văn hóa thể thao cũng như đời sống tinh thần của người dân ở nhiều địa phương trong cả nước đã được cải thiện. Tuy nhiên, kết quả hoàn thiện hai tiêu chí này chưa thật sự đồng đều.
Liên hoan Sân khấu thử nghiệm quốc tế diễn ra từ ngày 4 đến 13-10 tại Hà Nội được kỳ vọng sẽ có nhiều đột phá trong thể hiện ngôn ngữ hình thể, cấu trúc, làm giàu thêm ngôn ngữ của nghệ thuật sân khấu.
Trong thời đại công nghệ phát triển, ít nhiều cũng ảnh hưởng đến nhận thức của các bạn trẻ, nhất là đối với học sinh, sinh viên. Để các em hiểu đâu là tốt, đâu là xấu và biết trân trọng những giá trị mà ông cha ta đã gìn giữ từ bao đời, diễn giả văn hóa Hồ Nhựt Quang (học trò GS.TS Trần Văn Khê) tiếp tục thay thầy thực hiện dự án vinh danh văn hóa trong học đường.
Khán giả Bắc Giang hâm mộ chèo đang được sống trong bầu không khí sôi động với tiếng trống, tiếng đàn, tiếng nhị réo rắt bổng trầm cùng những câu hát chèo trong Liên hoan chèo toàn quốc, tổ chức tại Bắc Giang. Những ngày qua, liên hoan thật sự gây chú ý và đọng lại nhiều cảm xúc đối với các nhà quản lý, văn nghệ sĩ cùng đông đảo nhân dân địa phương.
Không ít nơi, trong các bản của đồng bào chỉ còn lác đác vài căn nhà sàn và tương lai không xa các ngôi nhà sàn này sẽ biến mất nhường chỗ cho nhà xây.