Bừng trong cánh diều

14:41 13/04/2017

Rẽ thân rơm rạ, vờn trên mặt cỏ rồi lấy đà phóng mình vút lên… Những con diều từng phút, từng giây thay đổi, đan cải, biến ảo với muôn hình hài và sắc màu, rồi chậm rãi rót xuống mặt đất thanh âm trầm bổng. Ấy là thức quà của đồng nội, cũng là hào quang ước mơ của đời nông dân chân lấm, tay bùn.

Hội Diều 2017 của làng Bá Dương Nội thu hút nhiều người tham gia - Ảnh: Lê Thư

Thú chơi gắn với nghi lễ

Trước sân đền thờ Thần linh Châu thổ, các nghệ nhân làng diều Bá Dương Nội, Đan Phượng, Hà Nội hồ hởi đón chúng tôi. Các đội thi diều và khách lần lượt thắp hương lễ thánh. Dưới con diều hình thuyền treo long trọng trên cửa chính, giữa bệ rồng, hoành phi, câu đối… ai nấy thành kính, thâm trầm. Đã thành thông lệ, cứ vào ngày rằm tháng ba âm lịch hàng năm, nhân dân làng Bá Dương Nội (Đan Phượng, Hà Nội) lại mở hội diều. Thú chơi này phổ biến ở nhiều địa phương nhưng gắn với nghi lễ thì duy nhất nơi đây mới đậm nét hội diều vùng châu thổ sông Hồng. Nghệ nhân Ưu tú (NNƯT) Nguyễn Hữu Kiêm, Chủ nhiệm CLB Diều truyền thống làng Bá Dương Nội cho hay, các cụ xưa kể lại, từ thời Đinh Tiên Hoàng đã có lễ hội thả diều. Có thể trước đấy, người Việt chơi diều còn lâu hơn nữa. Tính đến nay, làng diều Bá Dương Nội đã ngót nghìn tuổi, đi sâu vào tâm thức của người dân.

Thả diều không chỉ là trò chơi dân dã, giải trí sau giờ lao động mệt nhọc, mà với dân làng, đó còn mang cả tính tín ngưỡng. Ý nghĩa sâu xa của hội diều là lễ cầu tạnh của cư dân trồng lúa nước, mong muốn sau mùa đông xuân, thời tiết không còn ẩm ướt, âm u. Diều gặp gió lên thẳng, vươn cao, sáo diều ngân nga, thánh thót tức là lễ hội thành công, báo hiệu năm ấy mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, tật bệnh tiêu tan. Qua cánh diều, nông dân cũng nhận biết được thời tiết mưa nắng để dự liệu việc đồng áng… Đây là vốn tri thức được truyền qua các thế hệ.

Tinh tế, lãng mạn

“Chọn ngày đẹp mới vót dây, làm nan. Bồi giấy cũng phải mua giấy sạch, làm sáo thì càng cẩn thận, tỉ mỉ. Đó là cách ông cha tôi trân trọng con diều. Tới giờ, tôi vẫn không quên được hình ảnh bố với anh tôi chiều chiều ra hiên ngóng ngọn cây, nghe hướng gió thuận là đưa diều ra thả. Tiếng sáo cứ thế, vang vọng đến đêm…”, ông Nguyễn Chi Bảo, 82 tuổi, làng Bá Dương Nội nhớ lại. Theo ông Bảo, nông dân Việt Nam những tưởng đời đời chỉ biết quanh quẩn cái cày, mảnh ruộng, nhưng về thú chơi cũng rất tinh tế và lãng mạn. Bởi vậy, con diều còn được gắn thêm bộ sáo là thứ giao hòa cảm xúc với thiên nhiên.

Theo NNƯT Nguyễn Hữu Kiêm, tích xưa để lại, trước trời và đất còn giao hòa với nhau, cho đến một ngày mịt mù trời long đất lở, bầu trời cứ cao lên, các nàng tiên không còn xuống để du hội cùng người trần gian nữa. Nhân dân làm cánh diều nối trời và đất, nhưng chỉ có con diều thì đơn lẻ, nên người ta gắn ống tre, ống trúc cho phát tiếng kêu, như thể mời gọi các tâm hồn hướng về nhau cho thỏa tình thương, nỗi nhớ. “Làng Bá Dương Nội giờ hễ nghe thấy tiếng sáo là biết ngay diều của ai, bởi mỗi người có tiếng sáo khác nhau, như tiếng lòng mình vậy. Tiếng sáo vì thế, càng thêm ý nghĩa, thể hiện nghệ thuật tài ba và khéo léo của người chơi diều. Các cụ vẫn bảo, có người cả đời không có một bộ sáo hay, để nói rằng, làm diều đã khó, nhưng để làm sáo hay còn khó hơn nhiều. Tiếc rằng, đến giờ, số người làm sáo diều hay rất ít”, ông Nguyễn Hữu Kiêm nói.

Không gian thả diều thu hẹp

Hội diều mở ra, không chỉ người dân Bá Dương Nội mà các nghệ nhân ở Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương… cũng chung cuộc vui. Ông Nguyễn Văn Diệp, CLB Diều Sóc Sơn, Hà Nội cho biết: “Tham gia hội diều, những người chơi diều các nơi được gặp gỡ, chia sẻ kinh nghiệm. Chúng tôi không những được thả hồn vào con diều mà còn thấy mình góp phần duy trì, phát huy giá trị con diều truyền thống”.

Từng lắng lại trong những năm dài chiến tranh và bao cấp, khi đời sống mở mang, cùng với việc phục hồi nhiều loại hình di sản dân gian, khoảng hơn chục năm trở lại đây, các hội diều được vực dậy, tổ chức quy mô lớn. Những giá trị xưa cũ, những vốn liếng gửi gắm qua con diều, cây sáo được dịp sáng bừng nơi đồng quê. Các câu lạc bộ diều được thành lập ở nhiều địa phương. Người ta mở cuộc chơi diều để vui với nhau, với những ai về chơi hội làng. Chưa kể, con diều sáo còn bay xa hơn, vươn ra các hội diều quốc tế.

Có điều, cùng với quá trình đô thị hóa và hội nhập quốc tế, diều sáo cũng đứng trước nguy cơ phai nhạt chất hồn nhiên vốn có. Bầu trời vẫn cao rộng, nhưng bãi trống cứ ngày càng thu hẹp, diều đang mất đi “đất diễn”. NNƯT Nguyễn Hữu Kiêm chia sẻ: “Sẽ khó khăn khi nhà máy, công trình, đường điện mọc lên ngày càng nhiều, không gian để thả diều ít đi. Nhưng dù thế nào, lễ hội diều vẫn phải duy trì, chúng tôi chỉ có cách khắc phục. Tới đây, hội diều có thể không thả ở cánh đồng nữa mà sẽ phải tìm một vùng rộng hơn, có điều kiện hơn…”.

 Lễ hội thả diều làng Bá Dương Nội (hay Bá Giang) là lễ hội cổ truyền diễn ra hàng năm vào đúng ngày rằm tháng ba âm lịch, bao gồm phần tế tại miếu thờ Tổ diều và phần thi thả diều. Diều tham gia dự thi bắt buộc phải là kiểu diều truyền thống, có đủ 3 sáo trở lên, mỗi cánh có chiều dài tối thiểu 2,2m, rộng 0,6m, không gắn đuôi. Tuy mang danh hội làng, nhưng hội diều Bá Giang thường quy tụ rất đông nghệ nhân, người chơi diều trên khắp các địa phương, thể hiện đặc sắc nhất hội diều vùng châu thổ sông Hồng. Năm nay, lễ hội có sự tham gia của gần 100 con diều đến từ 9 CLB Diều ở Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên… cùng nhiều cá nhân chơi diều ở các tỉnh, thành phố lân cận.

Theo Lê Thư - ĐBND
 
 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN HỮU THÔNG     (Dẫn liệu từ miền Trung Việt Nam)I. Có lẽ khi những đoàn lưu dân Việt từ đất Bắc trong quá trình mở cõi về Nam, họ buộc phải có những thích ứng khá táo bạo khi tiếp cận với một vùng địa sinh thái mới lạ, cùng với nền văn hóa của cư dân bản địa tiền trú, ít chất tương đồng, cho dù, tất cả đều chịu sự chi phối của không gian đặc thù Đông Nam Á.

  • NGUYỄN HỮU NHÀNXa xưa tục ném còn có ở nhiều nơi trong nước. Ở đất bản bộ của Vua Hùng cũng có nhiều làng, nhất là ở vùng Mường không mấy làng không tổ chức ném còn trong dịp hội xuân và hội làng.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Trong nghi lễ vòng đời người của người Tà Ôi, lễ cưới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất và được phản ánh qua những điều cấm kị, kiêng cữ mà mỗi đôi trai gái, gia đình hai bên, những người tham gia đám cưới phải thực hiện.

  • TRẦN HOÀNGTrên dải bờ biển dài 340 km, từ chân Đèo Ngang đến chân đèo Hải Vân có hàng chục làng làm nghề chài lưới, đánh bắt và chế biến hải sản. Tổ tiên của cư dân các làng biển này đều có gốc gác từ các tỉnh phía Bắc.

  • TRẦN HOÀNG Cách đây gần 450 năm, khi đề cập tới phong tục và sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân vùng đất từ Đèo Ngang trở vào, tiến sĩ Dương Văn An đã viết: “Xuân sang thì mở hội đua trải, gái lịch, trai thanh. Hè đến thì bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã nơi ca, chốn múa…” (1).

  • LAN PHƯƠNGHuyện Phong Thổ (còn có tên gọi Mường Tso, Chiềng Sa) tỉnh Lai Châu nằm trong vùng núi rừng hùng vĩ với mạng lưới sông suối dày đặc và những thung lũng lòng chảo màu mỡ. Nơi đây tụ hội nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Thái, Dao, H'Mông. Hà Nhì, Giáy... trong đó người Thái (Tay đón, hay Táy Khao) chiếm vai trò chủ thể, cư trú lâu đời  với thiết chế bản mường chặt chẽ.

  • TRẦN HOÀNGCho đến nay cũng chưa ai biết rõ tín ngưỡng thờ cá voi ở các làng chài ven bờ biển Bình Trị Thiên xuất hiện từ bao giờ. Song việc cá voi dạt vào vùng bờ biển này thì đã được sử sách ghi lại từ cách đây gần 450 năm.

  • PHAN THUẬN ANLễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng người và đã có từ lâu trong lịch sử của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ hội phản ánh một cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hoá của mỗi địa phương và của từng quốc gia.

  • LÊ ANH TUẤNCứ vào độ cuối tháng 11 Âm lịch trở đi thì không khí Tết dường như đã dần dần hiện diện trong cái tiết trời, cây cỏ và trong sinh hoạt thường nhật của người Huế.

  • TRẦN VŨTrâu là loài động vật thích nghi với hệ sinh thái đầm lầy, ấm, ẩm thuộc khu vực Đông Nam Á. Nó là một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”...

  • NGUYỄN THỊ SỬUKhông dịp nào bằng lễ Aya (lễ cúng mùa, tết), trên mỗi nóc nhà người Taôi bốc lên nghi ngút thơm lừng hương vị cơm mới hoà quyện với bao món ăn đặc sản bay đi khắp núi rừng.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTrong kỷ niệm về thời thơ ấu của mỗi người ở Huế, thế nào cũng có những kỷ niệm về coi bói ngày Tết, nghĩa là có pha một chút mê tín dị đoan. Bởi vì suy cho cùng, đặc trưng của tinh thần Huế đâu có xa lạ gì với chuyện mê tín dị đoan. Người Huế nhìn vào đâu cũng thấy ngũ hành, vì vậy, thói kiêng cữ hoạc sùng bái lại càng là một thứ đặc sản Huế ở nơi họ.

  • NGUYỄN THỊ NGUYÊN HƯƠNGTết là một sự kiện đặc biệt trong đời sống của người Việt . Tục lệ về Tết cũng là chuyện “đất lề quê thói”, mỗi nơi có một cách riêng để đón Tết dù Tết mọi nơi cũng tương tự như nhau. Riêng với Huế, tục lệ đón Tết cũng mang những nét đặc trưng của vùng đất từng là kinh kỳ.

  • NGUYỄN KHẮC XƯƠNGTết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc. Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.

  • LÂM TÔ LỘCTrong di sản văn hoá dân tộc ở Việt Nam, múa dân tộc Việt có bề dày lịch sử được xác định bởi những hoa văn hình múa trên trống đồng Ngọc Lũ. Múa truyền thống nổi lên ở các lễ hội. Có người cho rằng người Việt không có thói quen sinh hoạt múa tập thể. Sử sách đã nói đến truyền thống sinh hoạt múa này.

  • TRẦN HOÀNGThành ngữ Việt có câu: "Vui như tết". Quả là như vậy! Tết vui không phải chỉ vì Tết là dịp để sum họp gia đình, gia tộc, để chú, bác, cậu, dì, bà con nội ngoại và xóm giềng tề tựu, gặp gỡ, thăm viếng nhau dưới một mái đình, mái nhà chung.