PHAN NGỌC THU
Ảnh: tư liệu
Lý luận văn học chỉ là một phần rất nhỏ, càng không phải là bộ phận quan trọng nhất trong chương trình ngữ văn phổ thông trung học, nhưng xét cho đến cùng, hình như lý luận văn học lại không thể thiếu được trong suốt cả quá trình dạy học văn học sử, giảng văn, làm văn của thầy giáo và học sinh phổ thông. Vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng môn văn, để hướng tới một chương trình và một bộ sách giáo khoa hoàn thiện, việc nêu những nhận xét và đề nghị về phần lý luận văn học trong chương trình và sách giáo khoa văn phổ thông trung học hiện hành là hết sức cần thiết.
1. So với chương trình cũ, phần lý luận văn học trong chương trình dự thảo của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam do Nhà xuất bản giáo dục ấn hành năm 1989, đã có những đổi mới rõ rệt. Việc phân đều số tiết dành cho môn học trong cả ba lớp 10, 11, 12; việc bổ sung thêm một số nội dung cơ bản tương đối có hệ thống; việc xác định dạy lý luận văn học ở PTTH dưới hai hình thức: "dạy trực tiếp trong giờ dành riêng cho môn học và dạy kết hợp qua các bài khái quát lịch sử văn học, các bài về tác giả, tác phẩm” đã góp phần khẳng định vị trí môn học này ở trường phổ thông.
Tuy nhiên, với phân lượng thời gian 4 tiết học ở mỗi lớp, với tỷ lệ 12 tiết lý luận văn học trong tổng số 363 tiết Văn học và Tiếng Việt ở trường PTTH thì hệ thống những khái niệm về lý luận văn học mà chương trình đặt ra lại vừa thiếu hụt về mặt thời gian, vừa quá nặng nề, ôm đồm và dàn trải về mặt dung lượng kiến thức. Đó là chưa nói đến cách cấu tạo chương trình đi từ bản chất, nguyên lý chung (văn học là gì?) đến tác phẩm văn học, thể loại văn học, các kiểu sáng tác... thì chẳng qua cũng chỉ là một dạng mô phỏng, rút gọn chương trình, nội dung môn lý luận văn học ở bậc đại học.
2. Xuất phát từ quan niệm phân biệt sự khác nhau giữa dạy văn ở đại học và dạy văn ở trường phổ thông, từ thực tế phân phối số tiết dành cho môn học đồng thời khắc phục những hạn chế của chương trình, soạn giả phần lý luận văn học trong bộ sách giáo khoa phổ thông trung học do Hội Nghiên cứu giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh biên soạn, Nhà xuất bản giáo dục ấn hành, đã "không trình bày một hệ thống các vấn đề lý luận văn học mà giới thiệu một số tri thức lý luận văn học một cách có hệ thống, theo một trình tự nhất định"(*).
Như vậy là, khác với cách sắp xếp của cấu tạo chương trình, sách giáo khoa đã lần lượt hướng dẫn các em tìm hiểu "Phân loại tác phẩm văn học", "Một số đặc điểm của truyện", "Các thể loại truyện" (lớp 10); "Thơ và tác phẩm thơ", "Kịch và tác phẩm kịch" (lớp 11) đến một số vấn đề thuộc về bản chất của văn chương như "Đặc trưng của văn học", "Sáng tạo và tiếp nhận văn học", "Sự phát triển lịch sử của văn học" (lớp 12). Cách sắp xếp này, tất nhiên, cũng có chỗ cần trao đổi thêm, nhưng nhìn chung là một giải pháp sáng tạo, hợp lý thích ứng với trình độ và khả năng nhận thức của các em học sinh phổ thông hiện nay. Nó không chỉ có ý nghĩa về mặt nội dung mà còn có tác dụng gợi ý về phương pháp giảng dạy. Phải chăng, con đường để lý luận văn chương đến với học sinh trung học vẫn phải là từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến trừu tượng. Đó không thể là con đường "duy lý" mà chủ yếu là qua thực tiễn cảm nhận các tác phẩm văn chương và từng hiện tượng văn học sinh động cụ thể.
3. Mặc khác, đi sâu vào nội dung từng bài, cũng có thể thấy được một ưu điểm nổi bật của sách giáo khoa mới là đã đem đến cho giáo viên và học sinh những tri thức lý luận vừa mang ý nghĩa phổ quát đồng thời cũng vừa cập nhật được những thành tựu mới của lý luận văn học. Người biên soạn đã thực sự chủ động tránh được lối viết nặng nề, kinh viện thường gặp không ít trong nhiều sách lý luận văn học trước đây và cũng vượt lên được những vấn đề rắc rối, phức tạo đang tranh luận trong đời sống văn học hiện nay để trình bày nội dung các bài học một cách giản dị, dễ hiểu mà không kém phần tế nhị, sâu sắc. Chẳng hạn, việc xem xét đặc trưng văn học trên nhiều bình diện, và quan tâm đúng mức đến đặc trưng về nội dung của văn học để phân biệt với nội dung của những hình thái ý thức xã hội khác là hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra vẻ đẹp riêng của văn chương; việc gắn những hiểu biết quen thuộc về tác phẩm với cái nhìn thi pháp học để tìm hiểu những đặc điểm cấu trúc của từng loại hình và đặt nó vào trong quá trình vận động phát triển của lịch sử văn học, đều góp phần đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi văn học là gì, và giúp cho người dạy, người học một phương pháp tư duy lý luận khoa học, toàn diện. Ở những bài học về “Một số đặc điểm của truyện” (lớp 10), “Thơ và tác phẩm thơ” (11) việc chú ý đến người kể, giọng kể, nhịp kể trong truyện, việc lưu ý phân biệt: "Chủ thể trữ tình", "Tác giả" và "Nhân vật trữ tình" trong thơ; phân biệt dòng thơ và câu hò, khổ thơ và soạn thơ, hình ảnh và hình tượng v.v... đối với học sinh phổ thông đều là những tri thức công cụ để đi vào thế giới tác phẩm văn chương.
Có thể nói rằng, cùng với các môn học khác, phần lý luận văn học trong chương trình và sách giáo khoa văn cải cách giáo dục đã có một bước tiến đáng kể. Nếu giáo viên vừa có sách giáo khoa vừa đọc kỹ những tài liệu bồi dưỡng và sách giáo viên cùng với những độc lập suy nghĩ sáng tạo trong quá trình chuẩn bị và lên lớp nhất định sẽ đem đến cho các em những giờ học văn nói chung và lý luận văn học nói riêng đầy hứng thú và bổ ích.
4. Tuy vậy, dù chúng ta đã có nhiều cố gắng, nhưng trong tình hình chất lượng môn Văn - Tiếng Việt ở nhà trường phổ thông vẫn đang giảm sút như hiện nay, nhìn lại ba năm thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới, trên tổng thể và từng bộ phận đều cần những điều chỉnh và bổ khuyết kịp thời.
- Riêng đối với phần lý luận văn học trong chương trình và sách giáo khoa PTTH cần phải có bàn tính kỹ hơn về dung lượng kiến thức và phân lượng thời gian. Đành rằng việc dạy lý luận văn học ở trường phổ thông chủ yếu với hình thức kết hợp thông qua các bài văn học sử và giảng văn, nhưng chỉ 4 tiết học dành cho mỗi lớp, trong lúc khối lượng kiến thức về lý thuyết văn học với nhiều phạm trù, khái niệm không ít hơn mấy so với đại học chắc chắn sẽ dông ép, không đem lại mấy hiệu quả. Nên giải quyết bằng cách tăng thêm một số tiết học tối thiểu hoặc chỉ để học sinh học đến nơi đến chốn một số kiến thức cơ bản nhất.
- Lẽ ra trong một điều kiện bình thường việc sắp xếp các bài lý luận văn học ở cuối chương trình và cuối tập 2 sách giáo khoa văn học của mỗi lớp, như hiện nay là hợp lý. Bởi lẽ, những tiết học lý luận văn học vào cuối năm ấy dù là ít ỏi nhưng sẽ có ý nghĩa đúc rút, khái quát hoá thành những phạm trù, những khái niệm mà trong suốt năm học, các em đã được tiếp xúc rải rác qua các bài văn học sử và giảng văn. Song, thực tế hiện nay đang ngược lại, giáo viên chưa yên tâm dạy, học sinh đã mệt mỏi lơ đãng khi sắp nghỉ hè, 4 tiết dạy lý luận trở thành cái đuôi chắp nối khi vội vã người ta sẽ bỏ qua, hoặc có dạy thì cũng không như yêu cầu mong muốn. Việc này đòi hỏi phải có một văn bản hướng dẫn chỉ đạo thực hiện chương trình và sách giáo khoa với những yêu cầu cụ thể. Không nhất thiết dạy lý luận văn học vào cuối năm, tốt nhất là nên dạy xen sau những phần văn học sử và giảng văn thích hợp, chẳng hạn dạy học bài "Thơ và tác phẩm thơ" sau khi học các tác giả và tác phẩm phong trào Thơ Mới; hoặc ở lớp 12 nên đưa phần lý luận văn học dạy vào đầu năm.
Về nội dung phần lý luận văn học trong sách giáo khoa, sau ba năm thực hiện cũng có những điều cần rút kinh nghiệm, thêm bớt và hoàn chỉnh. Bài "Kịch và tác phẩm kịch" đối với anh chị em giáo viên phổ thông là một bài khó dạy, học sinh lại càng chán học. Có nhiều nguyên nhân: giáo viên và học sinh tiếp xúc với kịch bản văn học chưa nhiều; nền kịch nước ta cũng còn thiếu những tác phẩm để lại ấn tượng lâu bền trong người đọc, người xem. Khi nêu một số đặc điểm của tác phẩm kịch soạn giả cần phân tích thêm những dẫn chứng từ các vở kịch được học trong chương trình như "Rômêô Juliet”, "Hămlét", "Người lái buôn thành Vơnidơ" (lớp 10) hoặc “Âm mưu và tình yêu” (lớp 11) - Theo ý chúng tôi nên chăng chưa cần học thể loại kịch ở phổ thông?
Bài "Sáng tạo và tiếp nhận văn học" cũng là một bài khó. Ở đây tính phức tạp và đa dạng của quá trình sáng tạo và tiếp nhận văn học phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, đối với học sinh phổ thông chưa thể hiểu hết được mà giáo viên không phải ai cũng hiểu để giảng dạy. Nên chăng bài này nên để học ở các trường chuyên ngành hoặc ở bậc đại học.
Ngoài ra còn những vấn đề về tính hệ thống nhất quán trong nội dung và hình thức trình bày của chương trình và sách giáo khoa Văn nói chung, cũng như phần lý luận văn học nói riêng cũng cần được tiếp tục chỉnh lý. Giá như, các bài soạn về phần văn học sử, giảng văn cùng thống nhất thể hiện được hệ thống lý thuyết quan điểm, quan niệm của phần lý luận văn học thì hiệu quả học tập môn văn sẽ cao hơn và riêng phần kiến thức lý luận văn học cũng được củng cố chắc hơn. (Chẳng hạn, khi lý thuyết về truyện không chỉ quan tâm đến nhân vật, cốt truyện mà còn nhấn mạnh đến cách kể qua người kể, giọng kể, nhịp kể thì phần hướng dẫn học tập cuối các bài phân tích truyện lại chỉ dừng lại phân tích nhân vật, cốt truyện. Cũng như vậy, khi lý thuyết về thơ phân biệt tác giả, chủ thể trữ tình nhân vật trữ tình thì phần lớn các câu hỏi hướng dẫn phân tích các bài thơ lại không chú ý đến sự khác nhau ấy).
Về mặt hình thức trình bày, với một bộ sách giáo khoa cùng chung một tập thể biên soạn, cùng do một nhà xuất bản ấn hành nhưng phần mục lục, cách ghi số phần, số chương, số bài trong ba cuốn sách lại không thống nhất. Ở lớp 10, lý luận văn học được in ở tập II sách văn học, tập 2, với thứ tự các bài tiếp theo phần văn học nước ngoài: bài 6, bài 7, bài 8. Ở lớp 11, lý luận văn học cũng được in ở phần II, tập II sách văn học, sau các bài văn học nước ngoài nhưng lại ghi: Bài 1, bài 2. Còn đến lớp 12 thì Lý luận văn học cũng in ở tập II sách văn học sau phần văn học nước ngoài nhưng lại có tên gọi là Chương II với các bài 1, 2, 3.
Những thiếu sót này lẽ ra không nên có. Dù nhỏ nhưng sẽ để lại ấn tượng về việc làm thiếu cẩn thận khi biên tập, làm ảnh hưởng đến độ tin cậy và tính khoa học cần thiết của một bộ sách giáo khoa.
Mong rằng, hàng năm trước mỗi lần tái bản, sách giáo khoa dùng trong nhà trường cần có những chỉnh lý và bổ sung kịp thời để chất lượng ngày càng hoàn thiện hơn.
Huế, 10-7-1993
P.N.T
(TCSH58/11&12-1993)
----------------------
(*) Tài liệu bồi dưỡng dạy sách GK lớp 12 môn văn - Vụ Giáo viên - 1992. trang 35.
Trên nóc một tòa nhà cao tầng ở thành phố T., người ta gắn lên đấy dòng chữ ngất nghểu, rõ to, gò bằng thép không rỉ, cách mấy cây số cũng nhìn thấy: Phân bón hữu nghị. Từ xưa đến nay chỉ nghe nói phân dùng để bón lúa, phân bón khoai sắn, và phân bón các loài cây khác… chưa nghe nói phân bón hữu nghị bao giờ. Chắc bón loại phân này, tình hữu nghị giữa các dân tộc tăng trưởng nhanh chăng? Loại phân bón hữu nghị có lẽ ngành ngoại giao đặt hàng?!
(SH) - Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, nghề làm báo nhiều khi ăn nhau ở ý tưởng. Một sự kiện đã được hàng chục báo đưa đến nhàm, nhưng người viết sau vẫn có chỗ đứng nếu như có ý tưởng mới.
(SH) - Không khác nào một sự nghịch lý trớ trêu khi người tiêu dùng và dư luận cả nước lên tiếng yêu cầu đã lâu song vẫn chưa “được” cơ quan quản lý nhà nước và những doanh nghiệp kinh doanh công khai Quỹ Bình ổn giá xăng dầu.
QUANG PHONG
Đóng và mở - hai vấn đề tưởng chừng như rất mâu thuẫn nhưng lại là quan điểm rất cần thiết phải được lưu tâm trong quy hoạch, phát triển đô thị Huế. Đóng - là để bảo tồn những giá trị của di sản trước sự xâm thực của làn sóng phát triển và mở - đó là vai trò lan tỏa, kết nối với các đô thị để bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững và có sức sống của đô thị sau này.
(SH) - Báo chí trong nước tuần này tiếp tục cảnh báo về sự khó khăn của ngành nông nghiệp, vốn được coi là “trụ cột của nền kinh tế” nước nhà. Khảo sát của Tiền Phong cho hay : Nông, thủy sản Trung Quốc ngập tràn chợ Việt.
(SH) - Dự án bauxite tỉ đô ở Tây Nguyên đã cho ra lò những mẻ sản phẩm đầu tiên song rất đáng băn khoăn và suy nghĩ khi đó lại chẳng phải là những “trái ngọt đầu mùa”.
(SH) - Từ chuyện ở Tây Nguyên có địa phương xây dựng đến hơn 500 nhà văn hóa cộng đồng với kinh phí hàng chục tỉ đồng nhưng thưa thớt cư dân vào sinh hoạt, phải đóng cửa im ỉm đến chuyện các làng thanh niên lập nghiệp rộng mênh mông nhưng hoang vắng đã cho thấy nhiều nơi đang ném tiền qua cửa sổ.
(SH) - Gần đây tại Thừa Thiên - Huế, dư luận bàn tán xôn xao về việc cô giáo Hoàng Thị Mai, Hiệu trưởng Trường THPT Cao Thắng, thành phố Huế cho giáo viên làm đề thi của học sinh để kiểm tra chất lượng giáo viên ở trường.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu, quân đội ta đã buộc hơn 10.000 quân Pháp phải đầu hàng, kết thúc thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ (ngày 7/5/1954).
Thời gian gần đây, những bản nhạc rap tự sáng tác, tự chia sẻ của giới trẻ đang giành được nhiều sự quan tâm của công chúng bởi ngôn từ giản dị và ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Nhà sử học Dương Trung Quốc đã nói như vậy khi hay tin Hiệp hội Vận tải đề xuất nên phá Đàn Xã Tắc để... xóa đi hình ảnh chế độ phong kiến mục nát.
1. Những ngày qua, cư dân mạng truyền nhau clip hàng trăm học sinh một trường THPT tại TP.HCM đồng loạt xé đề cương ôn tập môn Lịch sử, rồi lên tầng 2 thả xuống trắng cả sân trường.
Nhà nước kêu gọi cắt giảm chi tiêu thường xuyên 10% nhưng hầu hết các địa phương đều mạnh tay chi vượt dự toán. Tiền dành cho y tế, giáo dục dù ít ỏi nhưng lại xài không hết... Đó là những nghịch lý trong xài tiền ngân sách được chính các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu ra trong phiên họp mới đây.
1.000 tỉ đồng. Đó là số tiền mà Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) có thể phải đền bù cho chủ 12 dự án du lịch khi dừng xây dựng cảng Kê Gà ở tỉnh Bình Thuận.
1. Mấy ngày nay, thông tin người đàn ông không tay không chân Nick Vujicic, đến Việt Nam trong tháng 5 làm nhiều người ngóng đợi.
Mỗi năm hàng nghìn trí thức trẻ du học theo các con đường khác nhau và không ai trả lời được câu hỏi: Bao nhiêu người trong số họ sẵn lòng trở về với những khó khăn về lương bổng, cơ hội và điều kiện làm việc?
Trong những giá trị minh triết và sách lược tinh túy của tiền nhân, trọng dụng nhân tài mãi là bài học cho muôn đời sau.
Dù được tôn vinh là “báu vật nhân văn sống” nhưng bà Hà Thị Cầu và nhiều nghệ nhân khác phải sống chật vật với nỗi lo "cơm áo".
SHO - Xóa đăng ký thường trú với người đi tù hoặc người xuất cảnh từ hai năm trở lên. Cấm người chống tiêu cực phát tán thông tin trong kỳ thi. Chỉ được bày bán thịt bảo quản ở nhiệt độ thường trong vòng 8 giờ. Đó là những văn bản mang tên… "lú lẫn"!
Dự án bauxite Tây Nguyên của TKV ngay từ đầu đã được phản biện bởi nhiều cán bộ lão thành, nhà nghiên cứu khoa học và hàng ngàn người dân kiến nghị nêu những bất cập rất rạch ròi, sâu sắc về các mặt: An ninh, kinh tế, môi trường, văn hóa-xã hội.