Mùa xuân chiếm một ví trí quan trọng trong thơ Nguyễn Trãi. Xuân hiện lên bằng nhiều vẻ dáng khác nhau, được khắc họa bằng nhiều cung bậc khác nhau. Mỗi một bài thơ xuân như là một trang nhật kí và cảm xúc của cuộc đời thi nhân.
Tranh "Trong vườn" của họa sỹ Lê Phổ
Hẳn thế! Có những mùa xuân tươi tắn trẻ trung đầy nhiệt huyết. Có những mùa xuân của tình cảm lứa đôi. Có những mùa xuân của hoài niệm và tiếc nuối. Cũng có những mùa xuân của trí tuệ và đạo học, của xông pha rồi xa lánh quan trường. Những chiều kích ấy trong thơ Nguyễn Trãi đan cài và hòa quyện với nhau để tạo nên vẻ đẹp đa chiều trong thơ ông. Nhưng nổi bật hơn cả vẫn là những bài thơ tình, không chỉ là nói về tình yêu mùa xuân mà còn ca ngợi cái xuân tình trần gian của con người.
Cái xuân tình ấy trước tiên là về mùa xuân tuổi trẻ, luôn háo hức và tràn đầy nhựa sống:
Từ bén hơi xuân tốt lại thêm,
Đầy buồng lạ màu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem.
(Cây chuối) 1
Bài thơ này chứa đựng những mã khóa đầy ẩn ý về yêu đương. Nào là các chữ “bén hơi xuân” dường như đang nhắm đến sự “bén duyên”, “bén hơi bén tiếng”. “Hơi xuân” là hơi dương (dương khí), là năng lượng của cuộc sống. Bản thân chữ “xuân” vốn cũng có nghĩa trỏ “chuyện ấy” của gái trai2 (trường phái tranh tính dục của Nhật Bản cũng được gọi là “xuân họa” - Shunga). Nào là “buồng lạ” không hẳn chỉ để trỏ “buồng chuối” mà còn trỏ chốn “buồng riêng đôi lứa”. Cái màu đêm đen vốn chẳng mấy ai ưa lại là kẻ đồng minh cho những người đang yêu. Chợt nhớ đến câu thơ “con cò mấp máy suốt đêm thâu” trong thơ Hồ Xuân Hương với “mỹ cảm phồn thực”. Lại nhớ đến cái đa tình, lơi lả trong câu thơ “người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ, màu Thích Ca nào thuở hữu tình” của nàng Điểm Bích khi “vào vai Thị Màu” để thử lòng ngài Huyền Quang.
Mặt khác, cây chuối cũng đã là một biểu tượng đa nghĩa trong văn hóa cổ phương Đông. Bài Vị triển ba tiêu của Tiền Hủ đời Đường tả đọt lá chuối chưa mở, hàm ý cái lòng xuân trinh trắng của người thiếu nữ đang e ấp chờ gió xuân lật giở. Còn trong văn hóa Việt Nam, cây chuối còn là biểu tượng của sinh dục và phát triển. Chuối nảy buồng ra nải, một bi mà nhiều quả, một gốc mà nhiều cây, nó là hình tượng sống động cho sự sinh nở phong nhiêu, đông con nhiều cháu. Lá chuối còn trỏ cái sinh thực khí của phụ nữ nữa. Lá vông, lá khế,… lá nào thì cũng vậy! Thế nhưng, những tầng hàm nghĩa ấy lại được Nguyễn Trãi thể hiện bằng những ngôn ngữ ẩn ước: bức tình thư đang phong kín chờ đợi gió xuân đến lật mở.
Biết rằng mùa xuân của đất trời là vô tận, còn đời người thì hữu hạn, tuổi thanh xuân chỉ là một điểm chấm nhỏ nhoi trên dòng chảy bất tận của thời gian. Cho nên, con người dường như đang tận dụng từng giây từng phút:
Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm,
Những lệ xuân qua tuổi tác thêm.
Cực thấy ngoài hiên tơ liễu rủ,
Một phen liễu rủ một phen mềm.
(Tích cảnh thi 7)
Tiếc xuân nên mới cuống cuồng thưởng xuân, sợ (lệ) tuổi trẻ ngắn ngủi nên mới miệt mài tận sống. Các chữ “cầm đuốc chơi đêm” vốn dịch từ cụm bỉnh chúc dạ du 秉燭夜遊, từ điển Từ nguyên chú nghĩa là: cập thời hành lạc (gặp thời vui chơi)3. Cổ thi thập cửu thủ đời Hán có đoạn: “Sống chẳng qua trăm tuổi, thường ôm lo ngàn đời. Ngày ngắn đêm dài thế, sao chẳng cầm đuốc chơi?”. Mà đã chơi đêm thì chơi thâu đến tận sáng. Đến lúc ngoảnh ra ngoài nhìn thì lại thấy một màu dương liễu xanh mướt. Liễu càng xanh càng mướt càng mềm, thì lại càng thấy xuân. Trong thi ca cổ phương Đông, liễu chẳng những là một tín hiệu của mùa xuân đất trời, mà còn là biểu trưng của tấm lòng của người con gái đối với tình lang: nhành liễu khi chia tay, tưởng đã thề nguyện sẽ mãi một lòng một dạ, vậy mà chẳng biết lại bị kẻ khác bẻ mất? Cho nên, đang xuân thì hãy cứ tận hưởng, đào liễu đang xanh đang tơ thì hãy cứ “bẻ cho người tình chung” (Nguyễn Du). Biết mai sau thế nào mà gìn với giữ trong khi thời gian cứ trôi đi như nước chảy về Đông:
Cướp thiếu niên đi, thương đến tuổi,
Ốc dương hòa lại, ngõ dừng chân...
Cầm đuốc chơi đêm, này khách nói,
Tiếng chuông chưa dộng ắt còn xuân.
(Vãn xuân)
Vẫn là cái cảm giác “giành giật cuộc sống”, một cuộc giành giật không cân sức giữa sinh mệnh cá thể và quy luật của tạo hóa. Bất lực nhìn thời gian chảy trôi, bất lực nhìn những mùa xuân trôi đi, bất lực thấy thời niên thiếu trẻ trai bị cướp đoạt. Giống như cái thảng thốt của Nguyễn Du hơn ba trăm năm sau: “cái nắng mùa hè, cái lạnh mùa đông đã cướp tuổi thanh xuân đi mất” (hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên). Nhà thơ thấy tóc bạc trên đầu, mà muốn gọi mùa xuân trở lại (Ốc dương hòa lại ngõ dừng chân).
Tiếc xuân như thế, tiếc đời như thế, cho nên, có lúc Nguyễn Trãi còn “mong chiếm cả hết hòa xuân” (Tự thán 11). Mà chẳng chỉ có mùa xuân đâu, đến lúc thu vàng rơi rụng vẫn còn “thèm chết bên hoa đôi chim trắng” (Tiễn sát hoa biên song bạch điểu - Vãn lập). Cái cảm xúc “thèm sống muốn chết đi được” quả là sự thể hiện tột cùng của ước muốn nhân sinh.
Những mùa xuân nhân sinh là những cảm xúc của một cá thể trước sự vận hành, chảy trôi của vũ trụ và đời người. Con người ai cũng thế, luôn có những cảm thức hiện sinh khi mình đang tồn tại và nhận thức về sinh mệnh của chính mình khi mỗi độ xuân về. Nguyễn Trãi lại càng thế. Ông đã sống hết mình với những sức xuân trong tâm hồn và trí tuệ. Điều đó làm nên chất xuân tình trong những câu chữ cổ kính mà tân kì trong thơ ông!
Nguồn: Trần Trọng Dương - Tia Sáng
---------------------------------------------------------------
Chú thích:
1. Các bài thơ Nôm được dẫn trong Trần Trọng Dương. 2014. Nguyễn Trãi quốc âm từ điển. NXB Từ điển Bách khoa. Hà Nội.
2 谷衍奎 Cốc Diễn Khuê.《字源流字典 (Hán tự nguyên lưu tự điển). 语文出版社 Ngữ văn xuất bản xã.2010. P.773.
3 辭源》(Từ nguyên)。商務印書館 Thương Vụ ấn thư quán。上海 Thượng Hải.(1999). P.2103.
Ý NHI
1.
Một buổi chiều, khoảng cuối năm 1989, chúng tôi có cuộc gặp gỡ tại nhà Trần Thị Khánh Hội, trong một con hẻm rộng, quận Phú Nhuận.
TRẦN HOÀI ANH
(Kỷ niệm 49 năm ngày mất cố Thi sĩ Nguyễn Bính 1966 - 2015)
DƯƠNG PHƯỚC THU
Kể từ lúc thị xã Huế được nâng lên cấp thành phố, cho đến khi người Nhật làm cuộc đảo chính hất chân người Pháp khỏi đông Dương vào ngày 9/3/1945 thì Huế vẫn là thành phố cấp 3, nhưng là thành phố của trung tâm chính trị, văn hóa, nơi đóng kinh đô cuối cùng của nhà nước quân chủ Việt Nam.
HỒ VĨNH
Thi hữu Quốc Hoa Nguyễn Cửu Phương là một thành viên trong hội thơ Hương Bình thi xã do Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm hội chủ. Năm 1933 thi đàn đặt tên là Vỹ Hương thi xã, qua năm 1950 các thi hữu bắt đầu đổi tên Vỹ Hương thi xã thành Hương Bình thi xã.
Đọc sách Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý (ảnh, NXB Khoa học xã hội, Sách Khai tâm, quý 1/2015) của Hoàng Xuân Hãn là cách để “gặp lại” danh tướng Lý Thường Kiệt.
CAO HUY THUẦN
Từ trong mênh mông, một sợi mưa rơi vào lá sen. Nước vốn không có hình. Nằm trong lá, nước tròn như một viên ngọc, tròn như một hạt lệ, tròn như một thủy chung. Gió thoảng qua, lá sen lay động, nước rơi không để lại một dấu vết, rơi như chưa bao giờ có, rơi như một hững hờ.
NGUYÊN QUÂN
Những lúc bứt thoát được những hệ lụy cuộc sống, tôi chỉ thích được lang thang lên mạng, mong bắt gặp một câu thơ, một dòng văn nào đó gần gũi với tâm trạng để ru dỗ mình bằng những phút giây đồng điệu.
Trong các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Tế Hanh có dáng vẻ của một thi sĩ hơn cả, không phải chỉ bởi “đôi mắt nồng nàn lạ” (Hoài Thanh-Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam) mà còn là, hay chính là, bởi vẻ buồn ngơ ngác của ông, không phải chỉ trên vẻ mặt mà cả trong cách hành xử, ứng đối của ông với mọi người, mọi sự.
DA VÀNG
(Đọc tập thơ Tùng Gai của Bạch Diệp, Nhà xuất bản Văn Học, 8/2014)
NGUYỄN VĂN NHẬT THÀNH
Đồng hành cùng cuộc chuyển mình lớn lao của đất nước, văn học Việt Nam sau 1975 chứng kiến cuộc vật lộn âm thầm nhưng quyết liệt của bao văn nghệ sĩ trên hành trình tìm kiếm “sinh lộ” mới cho văn chương Việt.
Kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 -2014), NXB Quân đội Nhân dân vừa ấn hành cuốn sách Về cội nguồn Quân đội Nhân dân Việt Nam.
YẾN THANH
“Nếu nói một cách đơn giản rằng Đông phương luận hiện đại là một khía cạnh của cả chủ nghĩa đế quốc lẫn chủ nghĩa thực dân thì sẽ ít ai có thể tranh cãi được. Tuy nhiên, nói như thế chưa đủ. Cần phải trình bày nó một cách có phân tích, có tính lịch sử”. [Edward Wadie Said, Đông phương luận, Nxb. Tri thức, 2014, tr.200]
NGUYỄN KHẮC VIỆN
Với một Gavroche, Victor Hugo đã viết nên những trang bất hủ. Trẻ em của chúng ta đã anh dũng, hồn nhiên tham gia cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ của cha anh, dẫu chỉ một vài cá nhân; thế mà sách vở về mặt này còn quá ít. Nhà văn Việt Nam còn mắc nợ các em rất nhiều.
"Hạnh phúc tại tâm" là cuốn sách mới nhất của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa được dịch ra tiếng Việt. Sách chỉ ra hạnh phúc nằm trong bản thân mỗi con người, ở từng thời điểm chúng ta sống.
LÊ MINH PHONG
Chúng ta không rũ bỏ được Thượng Đế
Vì chúng ta vẫn tin vào ngữ pháp
(Nietzsche)
DƯƠNG PHƯỚC THU
Chiều ngày 12/5/2014, tôi nhận được món quà vô cùng quý giá, đó là cuốn sách Hải Triều Toàn Tập do chính gia đình của Nhà văn hóa, Nhà báo Hải Triều gửi tặng.
Nhà văn Trang Thế Hy đã bước vào tuổi 90. Một đời viết kéo dài suốt 70 năm, ông không viết nhiều nhưng hễ công bố tác phẩm là làng văn phải “giật mình”
Xin nói ngay rằng, đọc tập truyện Giọt nước mắt màu đất của Đức Ban (NXB Hội Nhà văn 2014), với tôi Chốn xưa là một truyện ngắn hay.
PHẠM XUÂN DŨNG
Trong số các nhà thơ, nhà văn quê hương Quảng Trị, Vĩnh Mai không phải là một tên tuổi lớn như Chế Lan Viên hoặc Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhưng ông vẫn là một tác giả đáng ghi nhận, một nhân cách đáng kính, một người trí thức đầy lòng tự trọng, một người yêu nước chân chính.