Vua Hàm Nghi ghé làng tôi

15:49 21/08/2015

PHAN QUANG
            Hồi ký

Vua Hàm Nghi ghé làng tôi. Vua nghỉ lại ở nhà tôi. Điều đó xảy ra một trăm năm về trước. Và nhà ấy là nhà của ông nội tôi.

Ảnh: internet

Thế nhưng tôi vẫn giữ câu đạo ngữ(1) "giật gân" ấy để mở đầu bài viết về một mẩu ký ức, nó là niềm tự hào của tuổi thơ và cũng là một nỗi canh cánh vẫn cộm lên nơi lòng tôi trong gần suốt cuộc đời sống xa quê hương.

Cha tôi có ngôi nhà nhỏ trên bờ sông Nhùng, ở vào khoảng nửa chặng đường dài chừng mươi ki lô mét trên con đường thiên lý từ thị xã Quảng Trị cũ vào lỵ sở phủ Hải Lăng (thôn Diên Sanh, nay thuộc xã Hải Thọ, huyện Triệu Hải).

Cha tôi thường kể: vườn mình xưa kia rộng lắm: nó trải từ bờ sông ra đến gần sát đường quan, cách đường có một dải ruộng rộc. Vì cảnh nhà sa sút, khoảnh vườn phải chia bốn xẻ ba, còn lại có thế này.

Cha lại kể: nhà mình xưa kia giàu lắm. Những ngày nắng mới, bà nội xếp bạc nén ra nong phơi, trắng lòa cả sân.

Cả đời tôi cho đến bây giờ chưa từng trông thấy nén bạc bao giờ, cho nên hồi ấy tôi càng không chút băn khoăn: tại sao bạc lại phải đem phơi. Tuổi ấu thơ mường tượng nén bạc chắc hẳn như phong bánh khảo để dành, gặp trời nồm phải đưa ra hong cho khỏi mốc.

Vì sao nhà mình nghèo đi? Tôi hỏi.

Cha thì thầm: Vì vua đến rồi vua đi. Bất kỳ nhà ai, hễ vua ghé rồi vua ra đi thì nhà đó sẽ sa sút.

Vua nào vậy? Trẻ thơ bao giờ cũng tò mò.

Cha ghé sát vào tai tôi; tiếng thì thầm càng nhỏ hơn:

- Đức Hàm Nghi.

Hai tiếng Hàm Nghi đâu có ý nghĩa gì nhiều đối với chú bé là tôi. Nhưng do thái độ trang trọng bí ẩn của cha, mặc dù còn rất nhỏ, tôi vẫn nhớ kỹ tên đức vua ấy cho đến ngày lớn khôn.

Những chi tiết khác chung quanh việc vua ghé nhà hấp dẫn tôi hơn. Nào là cả bức vườn rất rộng - một vườn cau - nằm đầy lính tráng. Nào là hai thớt tượng, không đưa được vào trong vườn, phải để ngoài đường cái, chỗ gần quán mụ Thập Giụ bây giờ. (Tên một người đàn bà góa mở quán nước cạnh đường quan).

- Đức vua đi hia, đội mũ dát ngọc và mặc áo thêu rồng chứ?

Cha tôi lắc đầu:

- Nào có ai được phép ngó mặt vua!

Cha tôi sinh năm 1880. Lúc vua Hàm Nghi bỏ kinh thành Huế ra Quảng Bình (tháng 5 năm Ất Dậu 1885 - theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim) cha tôi đã lên sáu, chắc hẳn đã đủ trí khôn để ghi vào ký ức nhiều điều nghe thấy lúc bấy giờ.

Cha tôi còn kể: Trong làng có một số người yêu nước lần ấy theo vua Hàm Nghi ra đi kháng chiến và không bao giờ trở về.

Cha ông lý Bản là một. Nhà ông lý cách nhà tôi có một lối đi, nối đường quan đến bờ sông, nó là cái ngõ dùng chung cho mấy gia đình trong xóm.

Tôi có được mấy lần theo cha sang ăn kỵ bên nhà hàng xóm. Cha tôi nói nhỏ với tôi trước khi đi: "Hôm nay không đúng là ngày kỵ thật đâu. Không ai biết "ổong" mất ngày nào. Con cháu chỉ lấy ngày ông bỏ làng cùng với vua ra đi để làm ngày giỗ, coi như ngày ông mất vậy thôi".

Lớn lên đi học, khi đã biết vua Hàm Nghi là ai, tôi hỏi cha tôi: Tại sao vua Hàm Nghi ghé nhà mình?

- Tại ông nội làm quan trong triều.

Và cha tôi bắc ghế, mở lấy hòm sắc treo tận đòn tay bên trên bàn thờ xuống cho tôi xem: Trong hòm sắc sơn son trang trí hình rồng ấp mây thếp vàng, có nhiều tờ sắc bằng giấy gió khổ rộng in nền hoa văn vàng nhạt. Chữ nho viết chân phương. Tôi không đọc được nhiều nhưng cũng phân biệt được các niên hiệu: nhiều hơn cả là các sắc phong thời Tự Đức, cũng có tờ niên hiệu Thành Thái. Màu giấy, màu mực nho và son khuôn ấn những sắc này mới hơn những tờ kia.

Cha tôi giảng giải: ông nội đỗ cử nhân, là người khoa bảng đầu tiên trong làng, có làm tri huyện huyện nhà (thời trước Hải Lăng là một huyện thuộc phủ Triệu Phong, đến thời Pháp mới nâng thành phủ). Sau vào Huế làm quan, có lúc tới chức Chưởng ấn. Nổi tiếng về tính cương trực. Ba lần bị giáng chức vì tội can vua, có lần bị đầy đi làm "lính sơn phòng" ở miền núi. Ba lần được phục chức, về kinh. Cha tôi được hàm ấm sinh cũng nhờ thừa hưởng chút lộc đó.

Những chi tiết trên đây chưa hẳn đã hoàn toàn chính xác. Vì ông nội tôi mất khi cha tôi - con út - còn ít tuổi. Gia đình khánh kiệt, cha tôi không được học hành nhiều như các bác tôi. Những điều nói trên chắc là nghe các bác kể lại (Ông tôi có hai vợ, một bà ở quê, một bà ở Huế. Có chín con: năm trai, bốn gái. Một người con gái là thân mẫu có trung tướng Cao Văn Khánh, Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam).

Xã Hải Thượng quê tôi có truyền thống cách mạng và kháng chiến. Thời chống Pháp, cả làng tản cư. Mặc dù địch đóng bốt cầu Nhùng, các thôn vẫn có cơ sở đảng và chính quyền. Một trong những đường dây an toàn của cán bộ từ căn cứ vùng biển Triệu Phong - Hải Lăng lên chiến khu là đường đi qua thôn Thượng Xá. Trong kháng chiến chống Mỹ, Hải Thượng là một trong mấy xã sớm được tuyên dương anh hùng ở khu Trị Thiên, và là quê của anh hùng vũ trang giải phóng Phan Thanh Chung, của chiến sĩ đấu tranh chính trị Phan Thị Cam...

Những ngày sống ở miền Bắc, tôi hằng nhớ về làng quê với biết bao trìu mến và tự hào. Chuyện vua Hàm Nghi ghé nhà là một chi tiết xúc động. Tìm đọc sử liệu, thấy Trần Trọng Kim có viết: "...Xa giá đến Trường Thi vào nghỉ được một lát, thì Tôn Thất Thuyết lại giục lên đường, nói rằng quân Pháp đã sắp đuổi tới. Tối ngày 23 (tháng 5 năm Ất Dậu), xa giá vào nghỉ nhà một người bá hộ, sáng ngày 24 ra đi, đến tối mới tới thành Quảng Trị. Quan tuần phủ Trương Quang Đản ra rước xa giá vào Hành cung và đặt quân lính để phòng giữ".

Tôi hằng phân vân: "Người bá hộ" ấy phải chăng là ông nội mình? Nhưng nhà tôi chỉ cách Hành cung ở Quảng Trị có năm cây số, làm sao đi cả một ngày, "đến tối mới tới nơi"?

***

... Bình Trị Thiên là dải đất đầy biến động và đổi thay sâu sắc khoảng hơn một trăm năm lại đây. Hồi nhỏ, tôi thích cuốn Tuy Lý Vương của Trần Thanh Mại kể về những biến cố trong triều, từ sự kiện pháo hạm Pháp nả đại bác vào Đà Nẵng cho đến cảnh "bốn tháng ba vua" đầy bi thảm.

Vì sao cuốn ký sự lịch sử ấy lại lấy tên một hoàng tử mang tước vương làm tựa đề? Trong lời tựa, Trần Thanh Mại phân trần (tôi nhớ đại ý): Vì cuộc đời, Tuy Lý (80 tuổi) trùng hợp với những biến động sâu sắc ở kinh đô. Nói về con người ấy chỉ là để viết về những sự kiện gói trong khoảng thời gian một đời người.

Tôi nghĩ: cuộc đời những nông dân ở những vùng như quê tôi hẳn còn chứng kiến nhiều sự kiện có tầm cỡ trọng đại hơn. Hồi ở lứa tuổi còn nhiều mộng tưởng về sự nghiệp văn chương, mỗi lần nghe kể về quê hương chiến đấu, về những con người bình thường mình từng quen biết thời tấm bé nay đang làm nên những chuyện phi thường, tôi vẫn nghĩ: giá có ai đó viết một bộ tiểu thuyết về cuộc đời của một nông dân như đời cha tôi chẳng hạn (cụ mất cuối năm 1974, thọ 95 tuổi), về một làng như làng tôi hoặc bao nhiêu làng khác ở dải đất miền Trung này, ắt sẽ có thể tạo nên một bức tranh hoành tráng, không gian không rộng lắm mà mang chiều sâu cả thế kỷ.

Tập I của bộ tiểu thuyết ấy sẽ mở đầu với cảnh xa giá một ông vua lánh giặc ghé nhà, nhốn nháo ngựa xe; trai làng theo vua ra đi; và kết thúc với những chương dội vang tiếng trống tổng khởi nghĩa. Tập II sẽ viết về cuộc kháng chiến chống Pháp của dân làng. Tập III, tập IV là Tết Mậu Thân, là đấu tranh chính trị, là thành cổ anh hùng, với những trường đoạn "mùa hè đò lửa", "đại lộ kinh hoàng" của lính ngụy... Dân làng trong lò lửa ấy. Những con cháu, bên nội, bên ngoại của những người như cha tôi chẳng hạn, có người chỉ huy quân giải phóng có người là chiến sĩ dân quân, có người tham gia các tiểu đoàn "Trâu điên", "Hổ xám" của Thiệu... (Sự thật là một trận bão lửa, một tiểu đoàn trưởng ngụy khét tiếng hung dữ, con trai một người chị họ của tôi, cùng với thiết giáp, cơ giới hùng hùng, hổ hổ hành quân "tái chiếm thành cổ"; đi ngang qua làng, viên tiểu đoàn trưởng ấy đã tạt vào bức vườn bị cày xới, xục các hầm tránh pháo, vừa đi vừa gọi: "Ôông ơi, ôông ơi, có ôông ở đây không? Cháu đây, cháu tìm ôông đây!... Ôông lên đi với cháu...")

Tập tiếp nữa sẽ viết về cảnh những người dân Hải Thượng từ miền Bắc, từ chiến khu, từ Sài Gòn, từ Tây Nguyên trở về, gặp nhau ngỡ ngàng vừa lạ vừa quen, có thương có giận, tụ hội ở con đường cái, nơi từng có cái quán nước của "mụ Thập Giụ", mà đâu đây đã từng buộc đôi voi của vua Hàm Nghi gần trăm năm về trước... (Ôi đáng yêu thay những mộng ước văn chương, càng đáng yêu vì nó sẽ không bao giờ là hiện thực).

Dù sao, việc những trai làng tôi theo vua Hàm Nghi ra đi là sự kiện có thật. Ngày giải phóng, tôi không gặp cha tôi để hỏi thêm về ông vua xuất bôn. (Cụ đã chờ con gần ba mươi năm và gần đến đích thì như một thân cây kiệt nhựa, không còn rán được nữa, cụ khô dần). Nhưng tôi đã gặp một người cháu, anh Lê Bân, con bà chị ruột, tốt nghiệp khoa sử Viện đại học Huế. Lê Bân cũng có biết chuyện vua Hàm Nghi ghé nhà: "Ôông ngoại kể, khi ôông mon men lên nhà trên, định nhìn trộm mặt vua thì bị lính canh cầm roi đuổi xuống dưới nhà..."

Vua Hàm Nghi ghé làng tôi!

Tôi dùng cái đầu đề "kích động" ấy đăng lên Sông Hương là còn muốn khơi gợi những người viết văn, những nhà làm sử Bình Trị Thiên quan tâm một chi tiết nghĩ cũng hay hay...

Huế, 1987
P.Q.
(SH37/05&06-89)

-------------
(1) Đạo ngữ: thuật ngữ báo chí, chỉ cách tóm gọn nội dung bài viết lên câu mở đầu.






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).