Về một nét đẹp trong phong thái con người xứ Huế

10:50 25/03/2009
TRẦN HOÀNGThật là thú vị khi được đọc bài “Như thế nào thì được gọi là người Huế?” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê (Sông Hương số 187 tháng 9/2004) và bài “Người Huế, anh là ai?” của nhà giáo – dịch giả Bửu Ý (Sông Hương số 188 tháng 10/2004). Hai anh Nguyễn Khắc Phê, Bửu Ý, người quê xứ Nghệ, người gốc xứ Huế, trong bài viết của mình, dù cách viết, cách kiến giải có khác nhau, nhưng đều tập trung bàn luận, “xác định tính cách Huế, đặc tính người Huế”.

Thực ra, vấn đề nầy, những năm trước đây, nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu Huế... trong các tác phẩm văn chương, các công trình khoa học của mình, không nhiều thì ít, khi viết về văn hoá, về con người vùng đất núi Ngự, sông Hương đều đã có nói đến, bàn đến. Dù vậy, hai bài viết của các anh Nguyễn Khắc Phê và Bửu Ý vẫn mang đến cho người đọc nhiều hiểu biết mới, cảm nhận mới.

Tìm hiểu đặc tính của con người một vùng đất, theo chúng tôi là bàn đến phong thái, lối sống, nếp sống, cách ứng xử, giao tiếp... của con người (trong mối quan hệ khăng khít, dài lâu và uyển chuyển giữa con người với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và cả với chính bản thân mình). Phong thái ấy, lối sống, nếp sống, cách ứng xử và giao tiếp ấy được hình thành, bồi đắp và định hình dần theo năm tháng... Những gì đã được xác định là đặc tính, là phong thái thì đều trở thành nét riêng, sắc thái riêng của con người của một vùng quê, một vùng văn hoá.

Không rõ tự thuở nào, trong ngôn ngữ của người Việt đã thấy có các cụm từ “người xứ Bắc”, “người xứ Thanh”, “người xứ Nghệ”, “người xứ Huế”, “người xứ Quảng” v.v... Như vậy, dù ý thức hay không ý thức, ông bà ta xưa đã nhận ra rằng con người của một vùng, mỗi miền, hay dở đều có những sắc thái riêng, đặc tính riêng. Những nét riêng, sắc thái riêng nầy được thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau.

Tôi về Huế công tác những năm đầu sau ngày đất nước vừa hoàn toàn giải phóng. Một chiều thu, thong thả đạp xe trên đường Lê Lợi, ngang qua cổng trường Quốc Học và Hai Bà Trưng, tôi thật ngỡ ngàng khi gặp hàng trăm em nữ sinh với áo dài tha thướt trong buổi tan trường. Các em, em thì đi bộ, em thì đạp xe trên đường... tất cả đều với một phong thái thong thả, chậm rãi, ung dung. Bỗng nhiên, một cơn mưa rào ập đến. Không như phần đông học sinh một số trường học ở các nơi mà tôi từng chứng kiến đôi ba lần khi họ gặp mưa, các em nữ sinh ở Huế vẫn nhẹ nhàng, điềm tĩnh đạp xe và đếm bước, chỉ ý nhị nghiêng nón, kéo áo lên một chút cho gọn... Phải chăng cái thanh thản, ung dung, nhẹ nhàng, ý tứ và không hốt hoảng, vội vã khi gặp “sự cố” ấy của các nữ sinh cũng là một phong thái, một đặc tính của người xứ Huế? Tôi tự đặt câu hỏi như vậy và đem những cảm nhận ban đầu của mình về con người đất thần kinh để soi rọi, để kiểm chứng trên một số thành tố văn hoá Huế mà tôi được biết, được tiếp xúc trong hơn vài chục năm qua. Xin được dẫn ra đây một đôi điều để độc giả cùng suy ngẫm.

Nói đến văn hoá ẩm thực Huế không thể không nói đến các thứ bánh dân dã như bánh bèo, bánh lọc, bánh nậm, bánh ít, bánh gai... song khác với nhiều vùng quê khác, các thứ bánh nầy ở Huế, không một thứ nào nặn to, gói to. Bánh bèo thì tròn xinh như bông hoa đồng tiền, bánh nậm thì mỏng nhẹ tựa những chiếc lá mít, lá khoai. Rồi nữa, chiếc bánh phu thê trong bàn tiệc cưới, cặp bánh chưng bày bán nơi hàng quán ven đường, không một thứ nào có dáng vóc mập mạp, thô kệch... tất cả đều nhỏ nhắn, xinh xắn, tinh tế và “thuỳ mị” (chữ dùng của giáo sư Phan Ngọc). Chưa nói đến cái chắt lọc, hài hoà, nhuần nhị trong cách phối hợp rất khéo léo, rất tài hoa các loại tinh bột, thịt, cá, tôm, gia vị... khi làm bánh, chỉ nhìn riêng phương diện tạo dáng hình và sắc màu của sản phẩm thôi, chúng ta cũng thấy được người xứ Huế, trong tư duy thẩm mỹ, thiên về cái thanh tao, duyên dáng, mềm mại, nhẹ nhàng, xinh xắn, chứ không ưa cái nặng nề, cục mịch... vì vậy khi ăn các thứ bánh Huế, mọi cử chỉ, hành động đều chậm rãi, từ tốn, thong thả và lịch lãm.

Bánh trái và cách ăn uống đã vậy, ngay đến các cung điện, đền chùa, lăng tẩm được xây dựng dưới vương triều Nguyễn, không ít cái mang dáng vóc to lớn, đường bệ, nhưng nhìn chung vẫn toát lên nét thanh thoát, trang nhã, hài hoà. Những công trình kiến trúc có tầm cỡ nầy hẳn cũng nói lên ít nhiều phong thái, nếp tư duy, lối sống, cách ứng xử với môi trường tự nhiên của con người Huế. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường thật sâu sắc và chí lý khi ông viết về chủ nhân của các lăng tẩm Huế: “Nét ung dung, thảnh thơi từ cõi sống sang cõi chết là một phẩm chất nhân văn của lăng Nguyễn và đấy cũng là phong thái nhẹ nhàng của người Huế đối diện với lẽ sinh tử vô thường của đời người” (1).

Cái phong thái thanh thoát, nhẹ nhàng không chỉ thể hiện ở các sản phẩm văn hoá do họ tạo ra mà còn được bộc lộ ngay trong tiếng nói nhỏ nhẹ êm ái, trong cách giao tiếp, ứng xử giữa con người với con người trong đời thường. Điều nầy được hun đúc, được chắt lọc thành tục ngữ, ca dao. Đọc thơ ca dân gian Huế, chúng tôi thấy người đất thần kinh ít nói đến chữ “yêu” khi bộc lộ tình cảm giữa nam và nữ. Chữ “yêu” nhiều chỗ được thay bằng chữ “thương” rất ý nhị, dịu dàng và cũng không kém phần sâu sắc, diết da:

-Anh thương em tận nón đến quai
Thương trong lớp lá, thương ngoài đường may.
-Em thương anh thầy đón, mẹ ngăn
Như đá dằn trên cỏ, biết mần răng đặng chừ?
-Em thương anh thầy mẹ nhủ đừng
Hai hàng nước mắt cứ rưng rưng nhỏ hoài.

Tình yêu lứa đôi, thời nào cũng vậy, người vùng quê nào cũng vậy, được thể hiện dưới nhiều cung bậc, dạng vẻ và cấp độ khác nhau, song cách biểu lộ, cách nói thì mỗi người có thể có những nét riêng, sắc thái riêng. Người xứ Quảng và Trung Bộ nói chung thiên về “bộc trực”, người Nghệ thì “trực” chứ không “bộc”. Đó là cái chất mà người xứ Huế (và cả Quảng Trị, Quảng Bình nữa) không có, hoặc chỉ có ở một mức độ nào đó thôi (2). Điều nầy có thể kiểm chứng được qua nhiều, rất nhiều câu ca dao Huế. Chẳng hạn khi bị phụ bạc, người con gái chỉ nói rất nhẹ nhàng với “đối tượng” của mình:

Qua cầu lật ván, tháo đinh
Đó mà ở bạc với mình thì thôi

Nhà văn Trần Thuỳ Mai, về câu ca dao trên đã có lời bình như sau: “Câu nói đau xót ấy là một lời phê phán mà cũng là một sự buông xuôi” (3).

Cách nói nhẹ nhàng, ý nhị nầy chúng tôi cũng gặp được ở một dị bản của bài dân ca Nghệ Tĩnh “Ví dặm thương” mà chúng tôi sưu tầm được ở Huế mấy năm trước đây. Bản gốc của bài dân ca, trong hai câu kết, người con gái xứ Nghệ đáp lời chàng trai:

... Đến duyên em thì em phải lấy chồng
Em yêu anh như rứa, mặn nồng tuỳ anh.

Bản sưu tầm ở Huế, cách nói nầy được thay bằng:

... Bởi chưng cha mẹ ép duyên cho nên em phải lấy chồng
Thôi đừng trách nhau nữa cho đau lòng hai ta.

Có lẽ chẳng nên bình luận gì thêm về hai câu ca dao trên chúng ta cũng đã hiểu rõ phong thái ứng xử của cô gái xứ Nghệ và cô gái xứ Huế.

Luận bàn về phong thái nhẹ nhàng, thanh thoát,... của người Huế là để khẳng định một “nét trội”, một “nét đẹp” của văn hoá một vùng đất được thể hiện trên phương diện nếp sống, lối sống, cách giao tiếp, ứng xử của con người. Nói như vậy không có nghĩa là nét đẹp nầy con người các vùng đất khác, miền quê khác không có, hoặc ít có... Song theo chúng tôi, nét đẹp nầy dễ nhận ra ở người Huế, văn hoá Huế. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng nét đẹp nào, cái đẹp nào, bên cạnh mặt hay, điều hay, cũng tiềm ẩn, cũng có mặt hạn chế, điều hạn chế. Thuở xưa đã vậy, chắc ngày nay cũng vẫn thấy thấp thoáng đâu đó. Ví như vì quá nhấn mạnh cái nhẹ nhàng, nhún nhường, khiêm tốn... có thể dẫn đến sự thiếu cái mạnh mẽ, quyết liệt (trong những trường hợp cần thiết) và quyết tâm vươn lên cái kỳ vĩ, hoành tráng...

T.H
(198/08-05)

----------------------

(1) Hoàng Phủ Ngọc Tường. Văn hoá Huế. Tạp chí Kiến thức ngày nay, Số 171 ngày 20-4-1995, trang 13.
(2), (3) Trần Thuỳ Mai. Ca dao tình yêu và tính cách con người Bình Trị Thiên. Kỷ yếu Hội nghị Văn học dân gian miền Trung lần thứ nhất và Hội nghị Văn học dân gian Nghệ Tĩnh. Trường ĐHSP Vinh xuất bản năm 1985, trang 77.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHẠM THỊ ANH NGA

    Giới văn học nghệ thuật trong Nam ngoài Bắc cũng như những người từng là học trò của ông thường nói với nhau, tưởng như đùa nhưng lại rất thật, rằng đến Huế mà chưa ghé thăm ông thì coi như là chưa đến Huế, gì thì gì vẫn cứ... thiếu.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Văn chương như một món ăn tinh thần cho mọi người. Đối với những người đam mê, các tác phẩm văn chương như hơi thở, như máu thịt. Ngoài việc là món ăn tinh thần, văn chương như những con đường vươn ra dẫn dắt để nối kết, giao thoa giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa vùng miền văn hóa này với vùng miền văn hóa khác.

  • LÊ VĂN LÂN

    Trong phong trào đô thị Huế, từ phong trào hòa bình 1954 - 1955, phong trào Phật giáo ở Huế những năm 1963 - 1964 đến phong trào li khai ở Huế 1966, có một nhân vật khi nhắc đến hầu như ai cũng biết - đó là bác sĩ Lê Khắc Quyến, nguyên Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế, nguyên Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN

    Ngày 01/10/2012, một tin vui không chỉ dành riêng cho Huế khi bộ Cửu vị thần công là 1 trong 30 hiện vật/nhóm hiện vật đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam.

  • NGUYỄN MINH VỸ
                    Hồi ký

    Thú thật với các bạn Tạp chí Sông Hương và những ai cùng quê là trước Cách mạng Tháng 8-1945 tôi có phần nào "mặc cảm" vì cái gốc Thừa Thiên của mình.

  • LƯƠNG AN

    Vào đầu nửa sau thế kỷ 19, tại Phú Xuân (tức Huế bây giờ), giữa lúc tiếng tăm hai anh em Miên Thẩm và Miên Trinh đang lừng lẫy, một sự kiện bỗng thu hút sự chú ý của giới thơ kinh thành: sự xuất hiện gần như đồng thời của Tam Khanh(1), ba nhà thơ nữ người hoàng tộc, trong đó, Thúc Khanh được ca ngợi nhiều hơn cả.

  • (SHO) Tiến sĩ Lê văn Hảo quê ở Huế, con trai ông Lê Văn Tập - một đại phú gia ở miền Trung, du học Pháp (1953), đỗ Tiến sĩ Đệ Tam cấp ngành Dân tộc học (1961) tại Đại học Sorbonne, làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (Centre national de la recherche scientifique) một thời gian rồi về nước (1965) giảng dạy Dân tộc học và Văn minh Việt Nam tại các Đại học Văn khòa Huế, Đại học Văn khoa Sài Gòn.

  • Có một người phụ nữ xứ Huế sinh sống và giảng dạy tại CHLB Đức nhưng luôn dành tình trang trọng chiếc áo dài Việt Nam. Bà là TS triết học Thái Kim Lan, với bà, áo dài làm nên một phần bản sắc vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Như chúng ta đã biết qua sách sử, cựu Hoàng đế Bảo Đại có 2 người vợ được hôn thú chính thức. Đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng hậu) và bà người Pháp là Monique Marie Eugene Baudot.

  • LÊ VĂN LÂN

    Những thập niên cuối thế kỷ XX, có một nhân vật lúc ẩn lúc hiện như rồng trong mây, như kình ngư giữa đại dương, có mặt ở các thời điểm lịch sử, có tác động đến phong trào giải phóng dân tộc ở Thừa Thiên Huế nói chung và phong trào đô thị Huế nói riêng.

  • PHAN THUẬN AN

    "Hôm nay, Ngài trở về trong lòng đất mẹ thân yêu, trở về giữa tất cả đồng bào con Hồng cháu Lạc, trở về bên núi Ngự, sông Hương...
    "Chúng ta thành kính cầu cho nhà vua đời đời yên nghỉ.
    "Lòng yêu nước của nhà vua còn sáng mãi với sử xanh".

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    LTS: Thời Pháp thuộc cũng như thời tạm chiếm, những “thượng khách” đến du lịch Huế thường được bà công chúa Lương Linh (con gái thứ 19 của vua Thành Thái và là em út của vua Duy Tân) hướng dẫn.

  • LÊ TIẾN DŨNG 

    Một ngày cuối thu tháng Mười năm 1965 tôi nghe qua Đài Tiếng nói Việt Nam một tin quan trọng: Hội Văn nghệ Giải phóng công bố Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu.

  • ĐOÀN XANH 

    Nhà thơ, nhà báo Thúc Tề bị Pháp thủ tiêu khi mới 30 tuổi. Gần 50 năm sau, bí mật được phát lộ, Nhà nước đã truy tặng ông danh hiệu Liệt sĩ với bằng Tổ quốc ghi công.

  • Ở tuổi 75, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân vẫn miệt mài bên chiếc máy tính để làm việc mỗi ngày. Ông luôn mang theo bên người một chiếc máy ghi âm, loại dùng bằng băng cassette, ông có thói quen ghi lại bất cứ buổi làm việc nào với các phóng viên báo, đài... Đón tôi trong con hẻm nhỏ dẫn vào ngôi nhà ở một quận gần trung tâm Sài Gòn, ông đội chiếc mũ kiểu Huế và những tiếng “răng, ni, nớ” rất Huế của ông mang lại cho tôi sự gần gũi để bắt đầu buổi trò chuyện.
                        Nhà văn ÁNH HƯỜNG (thực hiện)

  • Ngày 9/6/2014, nhà báo Nguyễn Khoa Bội Lan đã vĩnh biệt chúng ta, hưởng thượng thượng thọ 105 tuổi

  • Tôi lặng lẽ đi tìm về nhà "O Thương trống” mà trong lòng có cảm giác như một  đứa con đi xa lâu ngày trở về với mẹ để được nghe mẹ kể chuyện đời, chuyện nghề.

  • Có lẽ cho đến nay, ông Lê Văn Kinh là nghệ nhân làng nghề truyền thống lập nhiều kỷ lục nhất VN. Ông đã lập kỷ lục về bộ tranh thêu bài thơ "Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền sư bằng 14 thứ tiếng. Tiếp đó là bộ Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật. Đầu tháng 5-2014 vừa qua, ông tiếp tục xác lập kỷ lục thứ ba, đó là thêu tay hai bài thơ "Tẩu lộ” và "Hoàng hôn”  -  hai bài thơ trong tập "Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

  • VÕ SƠN TRUNG

    Con người đó, là nhà văn, nhà văn hóa, nhà từ điển học Đào Đăng Vỹ cực kỳ nổi tiếng ở Huế từ những năm 1940. Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1908 tại Huế, có tài liệu nói ông mất ngày 7/4/1987 tại California - Mỹ(1).

  • Cật tre được lựa từ rừng già, xung quanh lồng được chạm trổ tuồng tích như một bức tranh hoàn hảo… Những chiếc lồng chim như một tác phẩm nghệ thuật ấy có giá cả chục triệu đồng.