Ngày 18 tháng 9 năm 2015, được sự nhất trí của lãnh đạo tỉnh, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm thành lập. Đây là một hoạt động có ý nghĩa lịch sử và cũng vô cùng giàu chất nhân văn, nhằm ôn lại những trang sử vẻ vang của một vùng đất giàu văn hóa - về một trung tâm văn hóa - văn học nghệ thuật tiêu biểu của nước nhà.
Ảnh lưu niệm anh em văn nghệ sĩ Huế 1988
Trong quá trình tìm kiếm tư liệu lịch sử để góp phần biên soạn thật đầy đủ cho cuốn kỷ yếu 70 năm Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, đáng tiếc là đến ngày kỷ niệm vẫn có một số tư liệu chưa tìm ra. Đến cuối năm 2015, nhà báo Dương Phước Thu mới tìm thấy thời gian tổ chức và danh sách các tác giả được tặng Giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh Bình Trị Thiên lần thứ nhất (1976 - 1982), thường gọi là Giải “Bông Sen Bạc” in trên báo Dân - cơ quan của Đảng bộ tỉnh Bình Trị Thiên thời đó. Để bạn đọc có thêm tài liệu tham khảo, chúng tôi xin công bố lại nguyên văn không khí trao giải và danh sách 83 văn nghệ sĩ tên tuổi được tặng Giải thưởng cao quý lần thứ nhất này.
Để biểu dương sự đóng góp vào thành tựu chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, động viên nhiệt tình lao động sáng tạo của những người làm công tác văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên, góp phần thực hiện xuất sắc các Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ III, tiến tới Đại hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên lần thứ II, tối ngày 3 tháng 4 năm 1983, Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên đã tổ chức trọng thể Lễ trao tặng Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Bình Trị Thiên lần thứ nhất (1976 - 1982).
Đồng chí Vũ Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Thái Bá Nhiệm, Phó Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Văn Lương, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh cùng nhiều đồng chí trong Ban Chấp hành Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh và các đồng chí lãnh đạo các ngành, các đoàn thể trong tỉnh đã tới dự. Tham dự buổi lễ còn có đồng chí Văn Phác, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Đoàn nhạc sĩ thành phố Hồ Chí Minh gồm các nhạc sĩ Hoàng Hiệp, Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn đang công tác tại Huế cũng đã đến chia vui.
Đồng chí Lê Tư Sơn, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, Chủ tịch Hội đồng Giải thưởng đọc báo cáo tổng kết, khẳng định những thành tựu của lực lượng văn nghệ sĩ Bình Trị Thiên trong 7 năm qua. Các đồng chí Văn Phác, Vũ Thắng, Nguyễn Văn Lương đã lần lượt trao phần thưởng cho các tác giả được giải.
Thay mặt Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh, đồng chí Vũ Thắng đã biểu dương những đóng góp của anh chị em văn nghệ sĩ Bình Trị Thiên trong thời gian qua, ân cần nhắc nhở anh chị em không ngừng đi sâu vào cuộc sống phong phú, sinh động nhưng cũng đầy những khó khăn và thử thách, mạnh dạn khám phá và sáng tạo, xây dựng nên nhiều tác phẩm đáp ứng được những yêu cầu của cách mạng hiện nay, đồng thời tạo điền kiện để sớm có những tác phẩm có tầm cỡ xứng đáng với quê hương, có sức sống lâu bền và có tính khái quát cao.
Họa sĩ tuổi cao Phạm Đăng Trí và nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã phát biểu nói lên những xúc động của mình trước sự quan tâm của Đảng bộ và chính quyền trong tỉnh đối với hoạt động sáng tạo của anh chị em văn nghệ sĩ và niềm mong muốn làm việc tốt hơn cho quê hương.
Kết thúc buổi lễ, các văn nghệ sĩ đã đọc thơ, hát những bài hát vừa sáng tác.
DANH SÁCH CÁC TÁC GIẢ ĐƯỢC TẶNG GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT BÌNH TRỊ THIÊN LẦN THỨ I (1976 - 1982)
+ Truy tặng Giải thưởng đặc biệt cho nhà thơ Thanh Hải.
+ 11 Giải A: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Xuân Hoàng, Lâm Thị Mỹ Dạ, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khắc Phê (Văn học); Trần Hoàn (Âm nhạc); Xuân Đàm, Lê Bá Sinh, Kim Quý (Sân khấu); Vũ Trung Lương, Phạm Đăng Trí (Mỹ thuật).
+ 26 Giải B: Hoàng Vũ Thuật, Mai Văn Tấn, Lê Thị Mây, Lương An, Trần Công Tấn, Trần Thùy Mai, Nguyễn Quang Hà (Văn học), Lê Hải Anh, Bửu Chỉ, Trần Quốc Tiến, Trương Bé, Hoàng Đăng Nhuận (Mỹ thuật), Trần Hữu Pháp, Hoàng Sông Hương, Lê Anh, Hà Sâm (Âm nhạc), Việt Thành, Hồng Sáu, Thái Nguyên Hạnh, Sỹ Sô (Nhiếp ảnh), Trần Ngọc Tranh, Xuân Lư, Thu Song, Thái Quang Ngoạn, Văn Lang, La Thị Cẩm Vân (Sân khấu).
+ 30 Giải C: Ngô Minh, Đinh Duy Tư, Vĩnh Nguyên, Nguyễn Văn Dinh, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Xuân Việt, Hải Bằng (Văn học), Tôn Nữ Tuyết Mai, Hồ Uông, Vĩnh Phối, Phan Xuân Sanh, Lê Hữu Nguyên, Đỗ Kỳ Hoàng, Phạm Đại (Mỹ thuật), Quách Mộng Lân, Mai Xuân Hòa, Đức Đình, Huy Chu, Minh Phương, Lê Quang Nghệ (Âm nhạc), Văn Hoằng, Đình Bá, Nguyễn Khoa Quả (Nhiếp ảnh), Nguyễn Văn Thanh, Hoàng Minh Hằng, Trương Minh Phương, Lê Khai, Phan Giang Nam, Nguyễn Ngọc Bình, Châu Dinh (Sân khấu).
+ 15 Tặng thưởng: Võ Quê, Lê Văn Hảo, Văn Lợi (Văn học), Đặng Mậu Tựu, Phan Thế Huề, Hải Bằng (Mỹ thuật), Thái Quý, Lô Thanh, Nam Vĩnh (Âm nhạc), Nguyễn Hữu Đính, Nguyễn Khoa Lợi (Nhiếp ảnh), Châu Thành, Mộng Điệp, Ngọc Yến, Hồ Ngọc Ánh (Sân khấu).
DƯƠNG PHƯỚC THU sưu tầm, giới thiệu
(SHSDB20/04-2016)
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).