Về giá trị nghệ thuật - sự gặp gỡ giữa quan điểm văn nghệ của Hải Triều với lý thuyết tiếp nhận hiện đại

08:45 08/10/2009
TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

Nhà lý luận phê bình văn nghệ Hải Triều - Ảnh: thegioinguoiviet.net

Lịch sử văn học Việt Nam còn ghi nhớ cuộc phê bình luận chiến về duy tâm duy vật, nghệ thuật vị nghệ thuật (*) vị nghệ thuật vị nhân sinh diễn ra cách đây 70 năm. Đó là lúc văn học nước ta chuyển qua một bước ngoặt với sự xuất hiện hàng loạt sáng tác của các nhà văn đã có những cách tân táo bạo so với những kinh nghiệm nghệ thuật truyền thống, nhất là trong lĩnh vực thơ ca và tiểu thuyết. Và cùng với sáng tác, là sự xuất hiện của những nhà phê bình đồng quan điểm tư tưởng - xã hội và quan điểm thẩm mỹ đã đóng vai trò tiên phong phát ngôn cho một hệ thống nguyên tắc sáng tạo mới. Họ bác bỏ những nguyên tắc đã và đang sáng tạo mà họ cho đã lỗi thời, phi nghệ thuật để đi đến một tuyên ngôn dường như thống nhất “văn chương là văn chương”, “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Đó cũng là lúc bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều sáng tác của các nhà văn theo khuynh hướng “tả thực” đi sâu phản ánh thực trạng của xã hội, qua đó mà phơi bày sự bất công, đen tối của chế độ thực dân nửa phong kiến.

Đặc biệt, kế thừa truyền thống văn thơ yêu nước đầu thế kỷ, cũng đến những năm 30 của thế kỷ XX, sáng tác của những nhà văn cách mạng đã tập trung phản ánh về những vấn đề nóng hổi, bức xúc của đời sống xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá, giáo dục lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động chống thực dân và phong kiến. Bảo vệ và khẳng định giá trị của sáng tác văn học theo khuynh hướng “tả thực”, nhất là “tả thực xã hội”, các nhà phê bình đứng trên quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” đã kịch liệt phê phán quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, đòi tách văn học ra khỏi cuộc sống chính trị - xã hội, coi nghệ thuật là cứu cánh của sáng tạo nghệ thuật. Nổi bật trong số đó là Hải Triều - nhà phê bình tiên phong của Đảng trên mặt trận văn nghệ.

Đánh giá vai trò của Hải Triều trong cuộc bút chiến với phái “nghệ thuật vị nghệ thuật”, đồng chí Trường Chinh đã khẳng định: “Công lao của đồng chí Hải Triều đáng cho chúng ta ghi nhớ. Cố nhiên với trình độ ngày nay nếu ta xem lại những bài ấy có thể ta thấy còn sơ lược. Nhưng ở trình độ và hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, trong những cuộc bút chiến có những bài như đồng chí Hải Triều là xuất sắc. (nhấn mạnh T.T.H). Những bài đó trên một mức độ nhất định đã làm sáng tỏ quan điểm giai cấp của Đảng trong văn học, nghệ thuật” (2)

Đứng trên quan điểm lịch sử, đồng chí Trường Chinh đã đánh giá đúng mực về những đóng góp của Hải Triều không chỉ thể hiện trong lĩnh vực văn nghệ, mà ngay trong lĩnh vực triết học, chính trị, xét ra cũng như vậy. Sau này, khi triết học và lý luận văn học mác xít đã trở thành tư tưởng chính thống, công khai phát huy ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và nghệ thuật thì nhìn lại những quan điểm của Hải Triều trước đó mới chỉ là những nhân tố và không tránh khỏi đôi chỗ “sơ lược”, nhưng xét trong hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của xã hội nước ta vào những năm 30 của thế kỷ XX, khi mà việc dịch thuật và truyền bá chủ nghĩa Mác trong điều kiện tư liệu còn hết sức hạn chế, việc vận dụng thế giới quan vô sản và quan điểm của Đảng vào phê bình văn nghệ luôn bị chế độ cũ kiểm duyệt một cách khắt khe thì những bài viết về triết học và văn học của Hải Triều lúc đó quả là những đóng góp xuất sắc.

Ngày nay đọc lại di sản lí luận văn nghệ của Hải Triều, bên cạnh những vấn đề còn giữ nguyên giá trị cần được kế thừa và phát triển, cũng có những vấn đề cần đổi mới về quan điểm và nhận thức cho phù hợp với sự đổi mới của thời đại và thực tiễn văn học. Sự kế thừa và đổi mới, đó là lẽ thường và hiển nhiên. Nhưng nhìn chung, những gì mà Hải Triều đã bàn về nghệ thuật cách đây hơn nửa thế kỷ, từ nguồn gốc, bản chất, quy luật phát triển của nghệ thuật đến đặc trưng và chức năng xã hội của nó, từ vấn đề tự do sáng tác của nghệ sĩ đến nội dung và hình thức của tác phẩm, từ khuynh hướng sáng tác đến lập trường, quan điểm trong phê bình đánh giá nghệ thuật...v.v...” về cơ bản là đúng đắn và là những viên ngọc quý trong kho tàng văn nghệ của nước ta, đáng được chúng ta trân trọng nghiên cứu” (3).

Nói về giá trị nghệ thuật mà tập trung chủ yếu ở chỉnh thế tác phẩm, mãi đến nửa sau của thế kỷ XX, do sự tác động mạnh mẽ của đời sống văn học và ảnh hưởng của lý thuyết tiếp nhận hiện đại mà các nhà phê bình nước ta mới quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống. Còn trước đó mấy chục năm, xung quanh vấn đề này, ít nhiều chúng ta đã tìm thấy trong những ý kiến đánh giá và luận giải của Hải Triều đáng để ghi nhận.

Trước hết, giá trị của nghệ thuật được Hải Triều nhìn nhận bắt đầu từ khâu sáng tác, nhưng không coi mọi sáng tác đều tạo nên giá trị. Sáng tác có giá trị hay không - theo ông, là ở chỗ nhà văn có xuất phát từ một quan niệm đúng hay không về nghệ thuật. Vì vậy liên quan đến vấn đề này, các cuộc luận chiến của Hải Triều với Phan Khôi để bảo vệ đến cùng tính khoa học của “duy vật biện chứng pháp” là vì mục đích lấy đó làm chỗ dựa tư tưởng nhằm xác lập và khẳng định một quan niệm đúng đắn về nghệ thuật do ông khởi xướng - nghệ thuật vị nhân sinh. Viết trên báo Trung Kỳ (1935), sau khi đã chỉ trích ý kiến của những người cho rằng: “làm nghệ thuật là vì nghệ thuật, làm nghệ thuật để mà chơi, để cho đẹp”, Hải Triều nói: “Tôi hết sức chỉ cho họ thấy cái phát nguyên của nghệ thuật là trong sự sống (...). Nghệ thuật là vì nhân sinh chứ không bao giờ có cái nghệ thuật vì nghệ thuật.” (4). Trên cơ sở một quan điểm như vậy, yêu cầu đặt ra với nhà văn trước khi cầm bút là “sống phải sống cái vĩ đại của nhân dân, phải cảm cái cảm sâu sắc của đại chúng, phải chiến đấu trong chiến đấu anh dũng của dân tộc” (5) để khám phá, nhận thức và sáng tạo. Đây là cơ sở thực tiễn để hình thành khuynh hướng “tả thực xã hội”, là điều kiện để sáng tác tạo nên những giá trị nghệ thuật.

Tuy nhiên, giá trị nghệ thuật không chỉ dừng lại ở trách nhiệm và thái độ sống của nhà văn, càng không chỉ đọng lại ở quan điểm của nhà văn về nghệ thuật mà phải được thể hiện qua sáng tác bằng chính tác phẩm. Mỗi khi đã đứng trên quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” để sáng tác, mặc nhiên, nhà văn đã gắn việc sáng tác với đời sống xã hội, hướng sự phản ánh vào cuộc đời lầm than của những người nghèo khổ, vào hiện thực đấu tranh cách mạng của nhân dân và dân tộc. Nhà văn hoá thân vào tác phẩm không còn là cái tôi cô lập mà đã hoà chung trong cái ta của đồng loại, giai cấp để cảm và nghĩ về hiện thực. Trên báo Trung Kỳ (1935) Hải Triều vạch rõ: “Phái nghệ thuật vị nghệ thuật tưởng lầm rằng tình cảm trong nghệ thuật là cái sản vật của từng cá nhân mà thôi. Trong khi họ viết một cuốn sách, làm một bài thơ, họ nghĩ rằng đó là họ phát biểu cái bản ngã của họ (...). Có thế mà mới dám chủ trương cái sản vật của họ làm ra là chỉ vì nó và làm ra không cần phải hỏi làm ra để làm gì?” (6).

Ông nói: “Nghệ thuật là cái hệ thống của tình cảm diễn thành ra hình ảnh. Mà cái tình cảm trong nghệ thuật không xuất phát ở một cá nhân nào cả, mà chính là ở cái tổng hợp (synthèse) của những cái tình cảm giữa xã hội. Nhà nghệ sĩ khi diễn đạt cái tình cảm ấy lên trên mặt giấy hay trên tấm đá... là cố ý để cho mọi người xem tới cũng đồng mối liên cảm theo (nhấn mạnh T.T.H). Như vậy, sáng tác của nhà văn không phải là tuỳ hứng, vu vơ mà xuất phát từ ý đồ, mục đích trong mối liên hệ với độc giả qua tác phẩm. Chính độc giả là nơi tập trung nhu cầu xã hội đối với nhà văn, là đối tượng luôn đòi hỏi trông chờ nhà văn qua tác phẩm. Về mặt này, ý kiến của Hải Triều trên Tiểu thuyết thứ 7, số 62 (1935) đã chứng tỏ một sự nhận thức rất rõ: “”Giữa sự sống vất vả và gian khổ đầy những mâu thuẫn của xã hội ngày nay người ta đang ước ao về mặt tinh thần, đọc được những tác phẩm có thể diễn dịch được nỗi lòng của họ. Cái buồn, cái vui, cái giận, cái tiếc, cái thương, cái mơ ước (...) cũng cứ tô vẽ ra cho họ bằng những câu văn chân thật, cứng cỏi, mạnh bạo. Họ không cần những lời văn hoa mỹ điêu toa. Họ ưa những thể văn bình dị mà thiết thực” (8). Nghĩa là, phải xuất phát từ yêu cầu của độc giả cả về nội dung và hình thức, cả về tư tưởng và nghệ thuật để nhà văn chọn viết cái gì và viết như thế nào nhằm phát huy được hiệu quả của sáng tác. Mối liên hệ giữa nhà văn với độc giả, và ngược lại, giữa độc giả với nhà văn là mối liên hệ hai chiều trong quá trình giao tế văn học.  Không đợi đến khi tác phẩm ra đời mà ngay trong quá trình sáng tác, độc giả đã trở thành người bạn đồng hành của nhà văn, ám ảnh, thôi thúc và định hướng nhà văn cầm bút. Chỉ có những nhà văn chân chính mới đồng hành với độc giả chân chính; sáng tác của họ mới “biểu hiện được cái tình cảm tư tưởng phổ biến của số đông người trong một thời đại” (9) như Hải Triều nói, và do đó mới có thể tạo ra những giá trị nghệ thuật đích thực.

Dĩ nhiên dù sáng tác có tạo ra được giá trị nghệ thuật, thì đó cũng mới chỉ là giá trị ổn định, trong thế khả năng. Nó sẽ mãi mãi mất đi ý nghĩa nếu chỉ khuôn lại trong phạm vi sáng tác mà không được độc giả thưởng thức, tiếp nhận. Mác nói: “Chỉ có sử dụng mới hoàn tất hành động sản xuất, mang lại cho sản phẩm một sự trọn vẹn với tư cách là sản phẩm”. Những người theo phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” do không hiểu điều này hoặc cố tình phớt lờ để bảo vệ cho quan niệm của mình nên đã bị Hải Triều thẳng thắn chỉ trích. Trên báo Trung Kỳ số 1 và số 4 (1935), Hải Triều vạch rõ: “Nhà nghệ sĩ duy tâm đã cho rằng làm nghệ thuật chỉ là vì nghệ thuật. Vì nghệ thuật có giá trị vốn có của nó (sa valeur intrinsèque). Họ không cần sự phẩm bình của dư luận, sự thưởng thức của công chúng, tự nó đã có sẵn một giá trị... giá trị cố hữu của nó”. Đối lập với quan niệm đó, trên báo Tin văn số 6 (1935), ông khẳng định: “Cái giá trị của một tác phẩm và nghệ thuật không phải tự nó sẵn có mà chính là ở chỗ bình phẩm của xã hội”.

Sáng tác văn học được Hải Triều nhìn nhận như một sản phẩm của “sản xuất” tinh thần, nếu tác phẩm được viết ra không được độc giả tiếp nhận thì cùng lắm như một kỷ vật, sáng tác sẽ trở nên vô nghĩa và tác phẩm cũng dễ bị lãng quên. Chính khâu tiếp nhận của độc giả đã làm cho giá trị nghệ thuật của tác phẩm từ khả năng mà trở thành hiện thực, từ ổn định mà trở nên biến đổi; mục đích giao tiếp giữa nhà văn với bạn đọc mới được thực hiện. Ông nói: “Ví thử nhà thi sĩ viết ra cuốn sách rồi bỏ vào rương khoá lại đến khi chết đem xuống đất thì dầu ông ấy muốn cho tác phẩm của ông có giá trị cố hữu, ta cũng chả nói làm gì. Bên này thì ông viết ra ngâm chán rồi lại muốn đưa ra cho xã hội biết, tất cũng như cái mũ đưa ra giữa thị trường vậy thôi. Nó cũng tuỳ theo sự nhu yếu, sự sử dụng, sự thiếu thốn, sự thời thượng ..v..v... của mỗi giai cấp, mỗi thời gian, mỗi không gian mà quyết định cái giá cho tập sách của thi sĩ”.

Như vậy, giá trị nghệ thuật được Hải Triều xem xét không những trong mối liên hệ hữu cơ giữa sáng tác và tiếp nhận, mà ngay trong tiếp nhận, việc định giá đối với sáng tác qua tác phẩm, theo ông, còn do độc giả quyết định với sự chi phối của những yếu tố vừa mang tính chủ quan, vừa khách quan. Đó là yêu cầu của mỗi người, nhưng gắn bó không tách rời với giai cấp là lập trường, quan điểm, với thời gian, không gian là thời đại và hoàn cảnh lịch sử xã hội. Đã có lần ông khẳng định: “Cái giá của nghệ thuật trong xã hội này chỉ tương đối và hữu hạn mà thôi. Vì nghệ thuật đối với giai cấp này, thời đại này, xứ sở này thì cho là có giá trị, đối với giai cấp khác, thời đại khác, xứ sở khác thì chả ra gì”. Ý kiến của Hải Triều tuy chưa được triển khai một cách đầy đủ và cụ thể, nhưng trong nội dung cốt lõi của nó đã chứng tỏ một cái nhìn đúng đắn và sâu sắc của ông về một phương diện nữa của tiếp nhận. Đó là sự quy định của xã hội và văn hoá - lịch sử đối với việc đánh giá giá trị nghệ thuật, mà sau này, các nhà nghiên cứu tiếp nhận hiện đại ở nước ta đã có dịp phân tích và chứng minh một cách sáng tỏ, có hệ thống.

Như vậy không đợi đến những năm 70 của thế kỷ trước, ở ta mới có người đề xuất “xem xét giá trị nghệ thuật liên quan đến phạm vi thưởng thức tác phẩm của độc giả” - như một nhà phê bình đã nhận định, mà sớm hơn, cách đó 40 năm, xung quanh về vấn đề này, trong quan điểm văn nghệ của Hải Triều đã có nhiều ý kiến đặt cơ sở nền tảng. Giá trị di sản tư tưởng văn hoá của Hải Triều được khẳng định trên nhiều lĩnh vực. Chỉ kể riêng ở lĩnh vực văn nghệ, đóng góp của ông về một phương diện cụ thể như vậy đã xuất sắc mà trước đó chưa ai có được. (*).

T.T.H
(189/11-04)


-------------------------
(1) Đại diện cho phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” có Thiếu Sơn, Hoài Thanh còn đại diện cho phái “nghệ thuật vị nhân sinh” có Hải Triều, Hải Thanh, Hải Vân, Bùi Công Trừng...
(2) Trường Chinh, Về văn hoá và nghệ thuật, T2, Nxb Văn học, H.1986, trang 156.
(3) (4( (5) Hải Triều Về văn học nghệ thuật, Sđd, trang 9, 35, 99.
(6) (7) (8) Hải Triều, Về văn học nghệ thuật, Sđd, trang 34, 79, 56, 34
(9) Nhiều tác giả - Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, H.1986, T1, trang 331 (chuyển dẫn).
(*) “Khi xét công lao lịch sử, người ta không căn cứ vào chỗ là các nhà hoạt động lịch sử đã không cống hiến được gì so với nhu cầu của thời đại của chúng ta, mà căn cứ vào chỗ họ đã cống hiến được gì mới so với các bậc tiền bối của họ” (Lê nin, Về văn hoá văn học, Nxb Văn học, H, 1977, trang 194).





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.