Về giá trị nghệ thuật - sự gặp gỡ giữa quan điểm văn nghệ của Hải Triều với lý thuyết tiếp nhận hiện đại

08:45 08/10/2009
TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

Nhà lý luận phê bình văn nghệ Hải Triều - Ảnh: thegioinguoiviet.net

Lịch sử văn học Việt Nam còn ghi nhớ cuộc phê bình luận chiến về duy tâm duy vật, nghệ thuật vị nghệ thuật (*) vị nghệ thuật vị nhân sinh diễn ra cách đây 70 năm. Đó là lúc văn học nước ta chuyển qua một bước ngoặt với sự xuất hiện hàng loạt sáng tác của các nhà văn đã có những cách tân táo bạo so với những kinh nghiệm nghệ thuật truyền thống, nhất là trong lĩnh vực thơ ca và tiểu thuyết. Và cùng với sáng tác, là sự xuất hiện của những nhà phê bình đồng quan điểm tư tưởng - xã hội và quan điểm thẩm mỹ đã đóng vai trò tiên phong phát ngôn cho một hệ thống nguyên tắc sáng tạo mới. Họ bác bỏ những nguyên tắc đã và đang sáng tạo mà họ cho đã lỗi thời, phi nghệ thuật để đi đến một tuyên ngôn dường như thống nhất “văn chương là văn chương”, “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Đó cũng là lúc bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều sáng tác của các nhà văn theo khuynh hướng “tả thực” đi sâu phản ánh thực trạng của xã hội, qua đó mà phơi bày sự bất công, đen tối của chế độ thực dân nửa phong kiến.

Đặc biệt, kế thừa truyền thống văn thơ yêu nước đầu thế kỷ, cũng đến những năm 30 của thế kỷ XX, sáng tác của những nhà văn cách mạng đã tập trung phản ánh về những vấn đề nóng hổi, bức xúc của đời sống xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá, giáo dục lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động chống thực dân và phong kiến. Bảo vệ và khẳng định giá trị của sáng tác văn học theo khuynh hướng “tả thực”, nhất là “tả thực xã hội”, các nhà phê bình đứng trên quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” đã kịch liệt phê phán quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, đòi tách văn học ra khỏi cuộc sống chính trị - xã hội, coi nghệ thuật là cứu cánh của sáng tạo nghệ thuật. Nổi bật trong số đó là Hải Triều - nhà phê bình tiên phong của Đảng trên mặt trận văn nghệ.

Đánh giá vai trò của Hải Triều trong cuộc bút chiến với phái “nghệ thuật vị nghệ thuật”, đồng chí Trường Chinh đã khẳng định: “Công lao của đồng chí Hải Triều đáng cho chúng ta ghi nhớ. Cố nhiên với trình độ ngày nay nếu ta xem lại những bài ấy có thể ta thấy còn sơ lược. Nhưng ở trình độ và hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, trong những cuộc bút chiến có những bài như đồng chí Hải Triều là xuất sắc. (nhấn mạnh T.T.H). Những bài đó trên một mức độ nhất định đã làm sáng tỏ quan điểm giai cấp của Đảng trong văn học, nghệ thuật” (2)

Đứng trên quan điểm lịch sử, đồng chí Trường Chinh đã đánh giá đúng mực về những đóng góp của Hải Triều không chỉ thể hiện trong lĩnh vực văn nghệ, mà ngay trong lĩnh vực triết học, chính trị, xét ra cũng như vậy. Sau này, khi triết học và lý luận văn học mác xít đã trở thành tư tưởng chính thống, công khai phát huy ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và nghệ thuật thì nhìn lại những quan điểm của Hải Triều trước đó mới chỉ là những nhân tố và không tránh khỏi đôi chỗ “sơ lược”, nhưng xét trong hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của xã hội nước ta vào những năm 30 của thế kỷ XX, khi mà việc dịch thuật và truyền bá chủ nghĩa Mác trong điều kiện tư liệu còn hết sức hạn chế, việc vận dụng thế giới quan vô sản và quan điểm của Đảng vào phê bình văn nghệ luôn bị chế độ cũ kiểm duyệt một cách khắt khe thì những bài viết về triết học và văn học của Hải Triều lúc đó quả là những đóng góp xuất sắc.

Ngày nay đọc lại di sản lí luận văn nghệ của Hải Triều, bên cạnh những vấn đề còn giữ nguyên giá trị cần được kế thừa và phát triển, cũng có những vấn đề cần đổi mới về quan điểm và nhận thức cho phù hợp với sự đổi mới của thời đại và thực tiễn văn học. Sự kế thừa và đổi mới, đó là lẽ thường và hiển nhiên. Nhưng nhìn chung, những gì mà Hải Triều đã bàn về nghệ thuật cách đây hơn nửa thế kỷ, từ nguồn gốc, bản chất, quy luật phát triển của nghệ thuật đến đặc trưng và chức năng xã hội của nó, từ vấn đề tự do sáng tác của nghệ sĩ đến nội dung và hình thức của tác phẩm, từ khuynh hướng sáng tác đến lập trường, quan điểm trong phê bình đánh giá nghệ thuật...v.v...” về cơ bản là đúng đắn và là những viên ngọc quý trong kho tàng văn nghệ của nước ta, đáng được chúng ta trân trọng nghiên cứu” (3).

Nói về giá trị nghệ thuật mà tập trung chủ yếu ở chỉnh thế tác phẩm, mãi đến nửa sau của thế kỷ XX, do sự tác động mạnh mẽ của đời sống văn học và ảnh hưởng của lý thuyết tiếp nhận hiện đại mà các nhà phê bình nước ta mới quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống. Còn trước đó mấy chục năm, xung quanh vấn đề này, ít nhiều chúng ta đã tìm thấy trong những ý kiến đánh giá và luận giải của Hải Triều đáng để ghi nhận.

Trước hết, giá trị của nghệ thuật được Hải Triều nhìn nhận bắt đầu từ khâu sáng tác, nhưng không coi mọi sáng tác đều tạo nên giá trị. Sáng tác có giá trị hay không - theo ông, là ở chỗ nhà văn có xuất phát từ một quan niệm đúng hay không về nghệ thuật. Vì vậy liên quan đến vấn đề này, các cuộc luận chiến của Hải Triều với Phan Khôi để bảo vệ đến cùng tính khoa học của “duy vật biện chứng pháp” là vì mục đích lấy đó làm chỗ dựa tư tưởng nhằm xác lập và khẳng định một quan niệm đúng đắn về nghệ thuật do ông khởi xướng - nghệ thuật vị nhân sinh. Viết trên báo Trung Kỳ (1935), sau khi đã chỉ trích ý kiến của những người cho rằng: “làm nghệ thuật là vì nghệ thuật, làm nghệ thuật để mà chơi, để cho đẹp”, Hải Triều nói: “Tôi hết sức chỉ cho họ thấy cái phát nguyên của nghệ thuật là trong sự sống (...). Nghệ thuật là vì nhân sinh chứ không bao giờ có cái nghệ thuật vì nghệ thuật.” (4). Trên cơ sở một quan điểm như vậy, yêu cầu đặt ra với nhà văn trước khi cầm bút là “sống phải sống cái vĩ đại của nhân dân, phải cảm cái cảm sâu sắc của đại chúng, phải chiến đấu trong chiến đấu anh dũng của dân tộc” (5) để khám phá, nhận thức và sáng tạo. Đây là cơ sở thực tiễn để hình thành khuynh hướng “tả thực xã hội”, là điều kiện để sáng tác tạo nên những giá trị nghệ thuật.

Tuy nhiên, giá trị nghệ thuật không chỉ dừng lại ở trách nhiệm và thái độ sống của nhà văn, càng không chỉ đọng lại ở quan điểm của nhà văn về nghệ thuật mà phải được thể hiện qua sáng tác bằng chính tác phẩm. Mỗi khi đã đứng trên quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” để sáng tác, mặc nhiên, nhà văn đã gắn việc sáng tác với đời sống xã hội, hướng sự phản ánh vào cuộc đời lầm than của những người nghèo khổ, vào hiện thực đấu tranh cách mạng của nhân dân và dân tộc. Nhà văn hoá thân vào tác phẩm không còn là cái tôi cô lập mà đã hoà chung trong cái ta của đồng loại, giai cấp để cảm và nghĩ về hiện thực. Trên báo Trung Kỳ (1935) Hải Triều vạch rõ: “Phái nghệ thuật vị nghệ thuật tưởng lầm rằng tình cảm trong nghệ thuật là cái sản vật của từng cá nhân mà thôi. Trong khi họ viết một cuốn sách, làm một bài thơ, họ nghĩ rằng đó là họ phát biểu cái bản ngã của họ (...). Có thế mà mới dám chủ trương cái sản vật của họ làm ra là chỉ vì nó và làm ra không cần phải hỏi làm ra để làm gì?” (6).

Ông nói: “Nghệ thuật là cái hệ thống của tình cảm diễn thành ra hình ảnh. Mà cái tình cảm trong nghệ thuật không xuất phát ở một cá nhân nào cả, mà chính là ở cái tổng hợp (synthèse) của những cái tình cảm giữa xã hội. Nhà nghệ sĩ khi diễn đạt cái tình cảm ấy lên trên mặt giấy hay trên tấm đá... là cố ý để cho mọi người xem tới cũng đồng mối liên cảm theo (nhấn mạnh T.T.H). Như vậy, sáng tác của nhà văn không phải là tuỳ hứng, vu vơ mà xuất phát từ ý đồ, mục đích trong mối liên hệ với độc giả qua tác phẩm. Chính độc giả là nơi tập trung nhu cầu xã hội đối với nhà văn, là đối tượng luôn đòi hỏi trông chờ nhà văn qua tác phẩm. Về mặt này, ý kiến của Hải Triều trên Tiểu thuyết thứ 7, số 62 (1935) đã chứng tỏ một sự nhận thức rất rõ: “”Giữa sự sống vất vả và gian khổ đầy những mâu thuẫn của xã hội ngày nay người ta đang ước ao về mặt tinh thần, đọc được những tác phẩm có thể diễn dịch được nỗi lòng của họ. Cái buồn, cái vui, cái giận, cái tiếc, cái thương, cái mơ ước (...) cũng cứ tô vẽ ra cho họ bằng những câu văn chân thật, cứng cỏi, mạnh bạo. Họ không cần những lời văn hoa mỹ điêu toa. Họ ưa những thể văn bình dị mà thiết thực” (8). Nghĩa là, phải xuất phát từ yêu cầu của độc giả cả về nội dung và hình thức, cả về tư tưởng và nghệ thuật để nhà văn chọn viết cái gì và viết như thế nào nhằm phát huy được hiệu quả của sáng tác. Mối liên hệ giữa nhà văn với độc giả, và ngược lại, giữa độc giả với nhà văn là mối liên hệ hai chiều trong quá trình giao tế văn học.  Không đợi đến khi tác phẩm ra đời mà ngay trong quá trình sáng tác, độc giả đã trở thành người bạn đồng hành của nhà văn, ám ảnh, thôi thúc và định hướng nhà văn cầm bút. Chỉ có những nhà văn chân chính mới đồng hành với độc giả chân chính; sáng tác của họ mới “biểu hiện được cái tình cảm tư tưởng phổ biến của số đông người trong một thời đại” (9) như Hải Triều nói, và do đó mới có thể tạo ra những giá trị nghệ thuật đích thực.

Dĩ nhiên dù sáng tác có tạo ra được giá trị nghệ thuật, thì đó cũng mới chỉ là giá trị ổn định, trong thế khả năng. Nó sẽ mãi mãi mất đi ý nghĩa nếu chỉ khuôn lại trong phạm vi sáng tác mà không được độc giả thưởng thức, tiếp nhận. Mác nói: “Chỉ có sử dụng mới hoàn tất hành động sản xuất, mang lại cho sản phẩm một sự trọn vẹn với tư cách là sản phẩm”. Những người theo phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” do không hiểu điều này hoặc cố tình phớt lờ để bảo vệ cho quan niệm của mình nên đã bị Hải Triều thẳng thắn chỉ trích. Trên báo Trung Kỳ số 1 và số 4 (1935), Hải Triều vạch rõ: “Nhà nghệ sĩ duy tâm đã cho rằng làm nghệ thuật chỉ là vì nghệ thuật. Vì nghệ thuật có giá trị vốn có của nó (sa valeur intrinsèque). Họ không cần sự phẩm bình của dư luận, sự thưởng thức của công chúng, tự nó đã có sẵn một giá trị... giá trị cố hữu của nó”. Đối lập với quan niệm đó, trên báo Tin văn số 6 (1935), ông khẳng định: “Cái giá trị của một tác phẩm và nghệ thuật không phải tự nó sẵn có mà chính là ở chỗ bình phẩm của xã hội”.

Sáng tác văn học được Hải Triều nhìn nhận như một sản phẩm của “sản xuất” tinh thần, nếu tác phẩm được viết ra không được độc giả tiếp nhận thì cùng lắm như một kỷ vật, sáng tác sẽ trở nên vô nghĩa và tác phẩm cũng dễ bị lãng quên. Chính khâu tiếp nhận của độc giả đã làm cho giá trị nghệ thuật của tác phẩm từ khả năng mà trở thành hiện thực, từ ổn định mà trở nên biến đổi; mục đích giao tiếp giữa nhà văn với bạn đọc mới được thực hiện. Ông nói: “Ví thử nhà thi sĩ viết ra cuốn sách rồi bỏ vào rương khoá lại đến khi chết đem xuống đất thì dầu ông ấy muốn cho tác phẩm của ông có giá trị cố hữu, ta cũng chả nói làm gì. Bên này thì ông viết ra ngâm chán rồi lại muốn đưa ra cho xã hội biết, tất cũng như cái mũ đưa ra giữa thị trường vậy thôi. Nó cũng tuỳ theo sự nhu yếu, sự sử dụng, sự thiếu thốn, sự thời thượng ..v..v... của mỗi giai cấp, mỗi thời gian, mỗi không gian mà quyết định cái giá cho tập sách của thi sĩ”.

Như vậy, giá trị nghệ thuật được Hải Triều xem xét không những trong mối liên hệ hữu cơ giữa sáng tác và tiếp nhận, mà ngay trong tiếp nhận, việc định giá đối với sáng tác qua tác phẩm, theo ông, còn do độc giả quyết định với sự chi phối của những yếu tố vừa mang tính chủ quan, vừa khách quan. Đó là yêu cầu của mỗi người, nhưng gắn bó không tách rời với giai cấp là lập trường, quan điểm, với thời gian, không gian là thời đại và hoàn cảnh lịch sử xã hội. Đã có lần ông khẳng định: “Cái giá của nghệ thuật trong xã hội này chỉ tương đối và hữu hạn mà thôi. Vì nghệ thuật đối với giai cấp này, thời đại này, xứ sở này thì cho là có giá trị, đối với giai cấp khác, thời đại khác, xứ sở khác thì chả ra gì”. Ý kiến của Hải Triều tuy chưa được triển khai một cách đầy đủ và cụ thể, nhưng trong nội dung cốt lõi của nó đã chứng tỏ một cái nhìn đúng đắn và sâu sắc của ông về một phương diện nữa của tiếp nhận. Đó là sự quy định của xã hội và văn hoá - lịch sử đối với việc đánh giá giá trị nghệ thuật, mà sau này, các nhà nghiên cứu tiếp nhận hiện đại ở nước ta đã có dịp phân tích và chứng minh một cách sáng tỏ, có hệ thống.

Như vậy không đợi đến những năm 70 của thế kỷ trước, ở ta mới có người đề xuất “xem xét giá trị nghệ thuật liên quan đến phạm vi thưởng thức tác phẩm của độc giả” - như một nhà phê bình đã nhận định, mà sớm hơn, cách đó 40 năm, xung quanh về vấn đề này, trong quan điểm văn nghệ của Hải Triều đã có nhiều ý kiến đặt cơ sở nền tảng. Giá trị di sản tư tưởng văn hoá của Hải Triều được khẳng định trên nhiều lĩnh vực. Chỉ kể riêng ở lĩnh vực văn nghệ, đóng góp của ông về một phương diện cụ thể như vậy đã xuất sắc mà trước đó chưa ai có được. (*).

T.T.H
(189/11-04)


-------------------------
(1) Đại diện cho phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” có Thiếu Sơn, Hoài Thanh còn đại diện cho phái “nghệ thuật vị nhân sinh” có Hải Triều, Hải Thanh, Hải Vân, Bùi Công Trừng...
(2) Trường Chinh, Về văn hoá và nghệ thuật, T2, Nxb Văn học, H.1986, trang 156.
(3) (4( (5) Hải Triều Về văn học nghệ thuật, Sđd, trang 9, 35, 99.
(6) (7) (8) Hải Triều, Về văn học nghệ thuật, Sđd, trang 34, 79, 56, 34
(9) Nhiều tác giả - Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, H.1986, T1, trang 331 (chuyển dẫn).
(*) “Khi xét công lao lịch sử, người ta không căn cứ vào chỗ là các nhà hoạt động lịch sử đã không cống hiến được gì so với nhu cầu của thời đại của chúng ta, mà căn cứ vào chỗ họ đã cống hiến được gì mới so với các bậc tiền bối của họ” (Lê nin, Về văn hoá văn học, Nxb Văn học, H, 1977, trang 194).





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)

  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?