Về giá trị nghệ thuật - sự gặp gỡ giữa quan điểm văn nghệ của Hải Triều với lý thuyết tiếp nhận hiện đại

08:45 08/10/2009
TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

Nhà lý luận phê bình văn nghệ Hải Triều - Ảnh: thegioinguoiviet.net

Lịch sử văn học Việt Nam còn ghi nhớ cuộc phê bình luận chiến về duy tâm duy vật, nghệ thuật vị nghệ thuật (*) vị nghệ thuật vị nhân sinh diễn ra cách đây 70 năm. Đó là lúc văn học nước ta chuyển qua một bước ngoặt với sự xuất hiện hàng loạt sáng tác của các nhà văn đã có những cách tân táo bạo so với những kinh nghiệm nghệ thuật truyền thống, nhất là trong lĩnh vực thơ ca và tiểu thuyết. Và cùng với sáng tác, là sự xuất hiện của những nhà phê bình đồng quan điểm tư tưởng - xã hội và quan điểm thẩm mỹ đã đóng vai trò tiên phong phát ngôn cho một hệ thống nguyên tắc sáng tạo mới. Họ bác bỏ những nguyên tắc đã và đang sáng tạo mà họ cho đã lỗi thời, phi nghệ thuật để đi đến một tuyên ngôn dường như thống nhất “văn chương là văn chương”, “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Đó cũng là lúc bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều sáng tác của các nhà văn theo khuynh hướng “tả thực” đi sâu phản ánh thực trạng của xã hội, qua đó mà phơi bày sự bất công, đen tối của chế độ thực dân nửa phong kiến.

Đặc biệt, kế thừa truyền thống văn thơ yêu nước đầu thế kỷ, cũng đến những năm 30 của thế kỷ XX, sáng tác của những nhà văn cách mạng đã tập trung phản ánh về những vấn đề nóng hổi, bức xúc của đời sống xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá, giáo dục lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động chống thực dân và phong kiến. Bảo vệ và khẳng định giá trị của sáng tác văn học theo khuynh hướng “tả thực”, nhất là “tả thực xã hội”, các nhà phê bình đứng trên quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” đã kịch liệt phê phán quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, đòi tách văn học ra khỏi cuộc sống chính trị - xã hội, coi nghệ thuật là cứu cánh của sáng tạo nghệ thuật. Nổi bật trong số đó là Hải Triều - nhà phê bình tiên phong của Đảng trên mặt trận văn nghệ.

Đánh giá vai trò của Hải Triều trong cuộc bút chiến với phái “nghệ thuật vị nghệ thuật”, đồng chí Trường Chinh đã khẳng định: “Công lao của đồng chí Hải Triều đáng cho chúng ta ghi nhớ. Cố nhiên với trình độ ngày nay nếu ta xem lại những bài ấy có thể ta thấy còn sơ lược. Nhưng ở trình độ và hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, trong những cuộc bút chiến có những bài như đồng chí Hải Triều là xuất sắc. (nhấn mạnh T.T.H). Những bài đó trên một mức độ nhất định đã làm sáng tỏ quan điểm giai cấp của Đảng trong văn học, nghệ thuật” (2)

Đứng trên quan điểm lịch sử, đồng chí Trường Chinh đã đánh giá đúng mực về những đóng góp của Hải Triều không chỉ thể hiện trong lĩnh vực văn nghệ, mà ngay trong lĩnh vực triết học, chính trị, xét ra cũng như vậy. Sau này, khi triết học và lý luận văn học mác xít đã trở thành tư tưởng chính thống, công khai phát huy ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và nghệ thuật thì nhìn lại những quan điểm của Hải Triều trước đó mới chỉ là những nhân tố và không tránh khỏi đôi chỗ “sơ lược”, nhưng xét trong hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của xã hội nước ta vào những năm 30 của thế kỷ XX, khi mà việc dịch thuật và truyền bá chủ nghĩa Mác trong điều kiện tư liệu còn hết sức hạn chế, việc vận dụng thế giới quan vô sản và quan điểm của Đảng vào phê bình văn nghệ luôn bị chế độ cũ kiểm duyệt một cách khắt khe thì những bài viết về triết học và văn học của Hải Triều lúc đó quả là những đóng góp xuất sắc.

Ngày nay đọc lại di sản lí luận văn nghệ của Hải Triều, bên cạnh những vấn đề còn giữ nguyên giá trị cần được kế thừa và phát triển, cũng có những vấn đề cần đổi mới về quan điểm và nhận thức cho phù hợp với sự đổi mới của thời đại và thực tiễn văn học. Sự kế thừa và đổi mới, đó là lẽ thường và hiển nhiên. Nhưng nhìn chung, những gì mà Hải Triều đã bàn về nghệ thuật cách đây hơn nửa thế kỷ, từ nguồn gốc, bản chất, quy luật phát triển của nghệ thuật đến đặc trưng và chức năng xã hội của nó, từ vấn đề tự do sáng tác của nghệ sĩ đến nội dung và hình thức của tác phẩm, từ khuynh hướng sáng tác đến lập trường, quan điểm trong phê bình đánh giá nghệ thuật...v.v...” về cơ bản là đúng đắn và là những viên ngọc quý trong kho tàng văn nghệ của nước ta, đáng được chúng ta trân trọng nghiên cứu” (3).

Nói về giá trị nghệ thuật mà tập trung chủ yếu ở chỉnh thế tác phẩm, mãi đến nửa sau của thế kỷ XX, do sự tác động mạnh mẽ của đời sống văn học và ảnh hưởng của lý thuyết tiếp nhận hiện đại mà các nhà phê bình nước ta mới quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống. Còn trước đó mấy chục năm, xung quanh vấn đề này, ít nhiều chúng ta đã tìm thấy trong những ý kiến đánh giá và luận giải của Hải Triều đáng để ghi nhận.

Trước hết, giá trị của nghệ thuật được Hải Triều nhìn nhận bắt đầu từ khâu sáng tác, nhưng không coi mọi sáng tác đều tạo nên giá trị. Sáng tác có giá trị hay không - theo ông, là ở chỗ nhà văn có xuất phát từ một quan niệm đúng hay không về nghệ thuật. Vì vậy liên quan đến vấn đề này, các cuộc luận chiến của Hải Triều với Phan Khôi để bảo vệ đến cùng tính khoa học của “duy vật biện chứng pháp” là vì mục đích lấy đó làm chỗ dựa tư tưởng nhằm xác lập và khẳng định một quan niệm đúng đắn về nghệ thuật do ông khởi xướng - nghệ thuật vị nhân sinh. Viết trên báo Trung Kỳ (1935), sau khi đã chỉ trích ý kiến của những người cho rằng: “làm nghệ thuật là vì nghệ thuật, làm nghệ thuật để mà chơi, để cho đẹp”, Hải Triều nói: “Tôi hết sức chỉ cho họ thấy cái phát nguyên của nghệ thuật là trong sự sống (...). Nghệ thuật là vì nhân sinh chứ không bao giờ có cái nghệ thuật vì nghệ thuật.” (4). Trên cơ sở một quan điểm như vậy, yêu cầu đặt ra với nhà văn trước khi cầm bút là “sống phải sống cái vĩ đại của nhân dân, phải cảm cái cảm sâu sắc của đại chúng, phải chiến đấu trong chiến đấu anh dũng của dân tộc” (5) để khám phá, nhận thức và sáng tạo. Đây là cơ sở thực tiễn để hình thành khuynh hướng “tả thực xã hội”, là điều kiện để sáng tác tạo nên những giá trị nghệ thuật.

Tuy nhiên, giá trị nghệ thuật không chỉ dừng lại ở trách nhiệm và thái độ sống của nhà văn, càng không chỉ đọng lại ở quan điểm của nhà văn về nghệ thuật mà phải được thể hiện qua sáng tác bằng chính tác phẩm. Mỗi khi đã đứng trên quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” để sáng tác, mặc nhiên, nhà văn đã gắn việc sáng tác với đời sống xã hội, hướng sự phản ánh vào cuộc đời lầm than của những người nghèo khổ, vào hiện thực đấu tranh cách mạng của nhân dân và dân tộc. Nhà văn hoá thân vào tác phẩm không còn là cái tôi cô lập mà đã hoà chung trong cái ta của đồng loại, giai cấp để cảm và nghĩ về hiện thực. Trên báo Trung Kỳ (1935) Hải Triều vạch rõ: “Phái nghệ thuật vị nghệ thuật tưởng lầm rằng tình cảm trong nghệ thuật là cái sản vật của từng cá nhân mà thôi. Trong khi họ viết một cuốn sách, làm một bài thơ, họ nghĩ rằng đó là họ phát biểu cái bản ngã của họ (...). Có thế mà mới dám chủ trương cái sản vật của họ làm ra là chỉ vì nó và làm ra không cần phải hỏi làm ra để làm gì?” (6).

Ông nói: “Nghệ thuật là cái hệ thống của tình cảm diễn thành ra hình ảnh. Mà cái tình cảm trong nghệ thuật không xuất phát ở một cá nhân nào cả, mà chính là ở cái tổng hợp (synthèse) của những cái tình cảm giữa xã hội. Nhà nghệ sĩ khi diễn đạt cái tình cảm ấy lên trên mặt giấy hay trên tấm đá... là cố ý để cho mọi người xem tới cũng đồng mối liên cảm theo (nhấn mạnh T.T.H). Như vậy, sáng tác của nhà văn không phải là tuỳ hứng, vu vơ mà xuất phát từ ý đồ, mục đích trong mối liên hệ với độc giả qua tác phẩm. Chính độc giả là nơi tập trung nhu cầu xã hội đối với nhà văn, là đối tượng luôn đòi hỏi trông chờ nhà văn qua tác phẩm. Về mặt này, ý kiến của Hải Triều trên Tiểu thuyết thứ 7, số 62 (1935) đã chứng tỏ một sự nhận thức rất rõ: “”Giữa sự sống vất vả và gian khổ đầy những mâu thuẫn của xã hội ngày nay người ta đang ước ao về mặt tinh thần, đọc được những tác phẩm có thể diễn dịch được nỗi lòng của họ. Cái buồn, cái vui, cái giận, cái tiếc, cái thương, cái mơ ước (...) cũng cứ tô vẽ ra cho họ bằng những câu văn chân thật, cứng cỏi, mạnh bạo. Họ không cần những lời văn hoa mỹ điêu toa. Họ ưa những thể văn bình dị mà thiết thực” (8). Nghĩa là, phải xuất phát từ yêu cầu của độc giả cả về nội dung và hình thức, cả về tư tưởng và nghệ thuật để nhà văn chọn viết cái gì và viết như thế nào nhằm phát huy được hiệu quả của sáng tác. Mối liên hệ giữa nhà văn với độc giả, và ngược lại, giữa độc giả với nhà văn là mối liên hệ hai chiều trong quá trình giao tế văn học.  Không đợi đến khi tác phẩm ra đời mà ngay trong quá trình sáng tác, độc giả đã trở thành người bạn đồng hành của nhà văn, ám ảnh, thôi thúc và định hướng nhà văn cầm bút. Chỉ có những nhà văn chân chính mới đồng hành với độc giả chân chính; sáng tác của họ mới “biểu hiện được cái tình cảm tư tưởng phổ biến của số đông người trong một thời đại” (9) như Hải Triều nói, và do đó mới có thể tạo ra những giá trị nghệ thuật đích thực.

Dĩ nhiên dù sáng tác có tạo ra được giá trị nghệ thuật, thì đó cũng mới chỉ là giá trị ổn định, trong thế khả năng. Nó sẽ mãi mãi mất đi ý nghĩa nếu chỉ khuôn lại trong phạm vi sáng tác mà không được độc giả thưởng thức, tiếp nhận. Mác nói: “Chỉ có sử dụng mới hoàn tất hành động sản xuất, mang lại cho sản phẩm một sự trọn vẹn với tư cách là sản phẩm”. Những người theo phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” do không hiểu điều này hoặc cố tình phớt lờ để bảo vệ cho quan niệm của mình nên đã bị Hải Triều thẳng thắn chỉ trích. Trên báo Trung Kỳ số 1 và số 4 (1935), Hải Triều vạch rõ: “Nhà nghệ sĩ duy tâm đã cho rằng làm nghệ thuật chỉ là vì nghệ thuật. Vì nghệ thuật có giá trị vốn có của nó (sa valeur intrinsèque). Họ không cần sự phẩm bình của dư luận, sự thưởng thức của công chúng, tự nó đã có sẵn một giá trị... giá trị cố hữu của nó”. Đối lập với quan niệm đó, trên báo Tin văn số 6 (1935), ông khẳng định: “Cái giá trị của một tác phẩm và nghệ thuật không phải tự nó sẵn có mà chính là ở chỗ bình phẩm của xã hội”.

Sáng tác văn học được Hải Triều nhìn nhận như một sản phẩm của “sản xuất” tinh thần, nếu tác phẩm được viết ra không được độc giả tiếp nhận thì cùng lắm như một kỷ vật, sáng tác sẽ trở nên vô nghĩa và tác phẩm cũng dễ bị lãng quên. Chính khâu tiếp nhận của độc giả đã làm cho giá trị nghệ thuật của tác phẩm từ khả năng mà trở thành hiện thực, từ ổn định mà trở nên biến đổi; mục đích giao tiếp giữa nhà văn với bạn đọc mới được thực hiện. Ông nói: “Ví thử nhà thi sĩ viết ra cuốn sách rồi bỏ vào rương khoá lại đến khi chết đem xuống đất thì dầu ông ấy muốn cho tác phẩm của ông có giá trị cố hữu, ta cũng chả nói làm gì. Bên này thì ông viết ra ngâm chán rồi lại muốn đưa ra cho xã hội biết, tất cũng như cái mũ đưa ra giữa thị trường vậy thôi. Nó cũng tuỳ theo sự nhu yếu, sự sử dụng, sự thiếu thốn, sự thời thượng ..v..v... của mỗi giai cấp, mỗi thời gian, mỗi không gian mà quyết định cái giá cho tập sách của thi sĩ”.

Như vậy, giá trị nghệ thuật được Hải Triều xem xét không những trong mối liên hệ hữu cơ giữa sáng tác và tiếp nhận, mà ngay trong tiếp nhận, việc định giá đối với sáng tác qua tác phẩm, theo ông, còn do độc giả quyết định với sự chi phối của những yếu tố vừa mang tính chủ quan, vừa khách quan. Đó là yêu cầu của mỗi người, nhưng gắn bó không tách rời với giai cấp là lập trường, quan điểm, với thời gian, không gian là thời đại và hoàn cảnh lịch sử xã hội. Đã có lần ông khẳng định: “Cái giá của nghệ thuật trong xã hội này chỉ tương đối và hữu hạn mà thôi. Vì nghệ thuật đối với giai cấp này, thời đại này, xứ sở này thì cho là có giá trị, đối với giai cấp khác, thời đại khác, xứ sở khác thì chả ra gì”. Ý kiến của Hải Triều tuy chưa được triển khai một cách đầy đủ và cụ thể, nhưng trong nội dung cốt lõi của nó đã chứng tỏ một cái nhìn đúng đắn và sâu sắc của ông về một phương diện nữa của tiếp nhận. Đó là sự quy định của xã hội và văn hoá - lịch sử đối với việc đánh giá giá trị nghệ thuật, mà sau này, các nhà nghiên cứu tiếp nhận hiện đại ở nước ta đã có dịp phân tích và chứng minh một cách sáng tỏ, có hệ thống.

Như vậy không đợi đến những năm 70 của thế kỷ trước, ở ta mới có người đề xuất “xem xét giá trị nghệ thuật liên quan đến phạm vi thưởng thức tác phẩm của độc giả” - như một nhà phê bình đã nhận định, mà sớm hơn, cách đó 40 năm, xung quanh về vấn đề này, trong quan điểm văn nghệ của Hải Triều đã có nhiều ý kiến đặt cơ sở nền tảng. Giá trị di sản tư tưởng văn hoá của Hải Triều được khẳng định trên nhiều lĩnh vực. Chỉ kể riêng ở lĩnh vực văn nghệ, đóng góp của ông về một phương diện cụ thể như vậy đã xuất sắc mà trước đó chưa ai có được. (*).

T.T.H
(189/11-04)


-------------------------
(1) Đại diện cho phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” có Thiếu Sơn, Hoài Thanh còn đại diện cho phái “nghệ thuật vị nhân sinh” có Hải Triều, Hải Thanh, Hải Vân, Bùi Công Trừng...
(2) Trường Chinh, Về văn hoá và nghệ thuật, T2, Nxb Văn học, H.1986, trang 156.
(3) (4( (5) Hải Triều Về văn học nghệ thuật, Sđd, trang 9, 35, 99.
(6) (7) (8) Hải Triều, Về văn học nghệ thuật, Sđd, trang 34, 79, 56, 34
(9) Nhiều tác giả - Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, H.1986, T1, trang 331 (chuyển dẫn).
(*) “Khi xét công lao lịch sử, người ta không căn cứ vào chỗ là các nhà hoạt động lịch sử đã không cống hiến được gì so với nhu cầu của thời đại của chúng ta, mà căn cứ vào chỗ họ đã cống hiến được gì mới so với các bậc tiền bối của họ” (Lê nin, Về văn hoá văn học, Nxb Văn học, H, 1977, trang 194).





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.

  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

  • MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

  • HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

  • TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.