Văn Lê - Nhà thơ, nhà văn đa tài

10:13 09/09/2020

Sớm thứ hai ngày 7-9, Trung tướng Triệu Xuân Hòa (Ba Hòa), nguyên Tư lệnh Quân khu 7, gọi cho tôi: “Anh nghe tin buồn chưa, bác Văn Lê đi đêm qua rồi”. Tôi không tin vào tai mình, hỏi lại: “Văn Lê nào, có phải nhà thơ Văn Lê?”. Giọng Ba Hòa buồn rười rượi: “Mới sớm qua, bác ấy còn đi qua ngõ nhà chúng tôi. Bác ấy vẫn cười vui mà?”.

Nhà thơ Văn Lê

Ra đi từ người lính

Với năng khiếu văn chương, Văn Lê từng được điều về Cục Chính trị Miền (Quân giải phóng miền Nam) làm thư viện. Đến năm 1974, ông sang công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng cùng các nhà văn, nhà thơ tên tuổi mặc áo lính như: Nam Hà, Triệu Bôn, Thanh Giang, Võ Trần Nhã, Trần Ninh Hồ, Lê Văn Vọng... Sau 30-4-1975, Văn Lê xuất ngũ, công tác tại Báo Văn nghệ giải phóng rồi Tuần báo Văn nghệ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam.

Tôi đọc thơ Văn Lê từ lâu, từ khi tôi còn làm lính chiến thuộc Trung đoàn 2 (Trung đoàn 174 - Đoàn Cao Bắc Lạng). Giọng thơ Văn Lê uyển chuyển, mượt mà, giàu chất dân ca, dễ chạm vào trái tim người đọc. “Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình”, phải đến cuối năm 1977, tôi mới trực tiếp gặp nhà thơ Văn Lê tại biên giới Tây Nam, khi Pôn Pốt xua quân sang tàn sát đồng bào ta ở Xa Mát, Thiện Ngôn (Tây Ninh). Khi cuộc chiến biên giới Tây Nam nổ ra, nhà thơ Văn Lê cùng nhà văn Trần Văn Tuấn (hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn TPHCM) tình nguyện tái ngũ. Các ông được bổ sung vào Phòng Tuyên huấn Quân khu 7 và cùng chúng tôi, những phóng viên Báo Quân khu 7, hành quân theo bộ đội ra biên giới. Những ngày sau đó, đọc ký sự, ghi chép của Văn Lê, chúng tôi càng trân quý trái tim nhân hậu của người lính.

Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia diễn ra suốt 10 năm, Văn Lê dù ở bất cứ cương vị công tác nào cũng theo sát bước chân người lính tình nguyện Việt Nam. Dạo ấy, lâu lâu chúng tôi gặp nhau tại Phòng Tuyên huấn Quân khu 7, lúc “trà dư tửu hậu”, Văn Lê đọc cho chúng tôi nghe cả một chương trường ca hay trích đoạn tiểu thuyết viết về người lính của ông. Năm 1982, Văn Lê chuyển công tác về Hãng phim Giải phóng. 

Mãi khắc họa chân dung người lính

Văn Lê không chỉ thành danh, nổi tiếng trên “cánh đồng chữ nghĩa” mà ông còn thành công, bội thu trên lĩnh vực điện ảnh. Nếu trên diễn đàn văn chương, ông là tác giả của hàng chục đầu sách, trong đó có 3 tập thơ, 2 trường ca, 5 tập truyện và 12 tiểu thuyết thì trong lĩnh vực điện ảnh, Văn Lê là tác giả kịch bản, đạo diễn nhiều tác phẩm được Hội Điện ảnh trao giải thưởng lớn như: Kịch bản phim tài liệu xuất sắc, Đạo diễn xuất sắc, 1 giải Bông sen vàng, 5 giải Bông sen bạc, 2 giải Cánh diều vàng; 1 giải Galaxy của truyền hình Nhật Bản...

Như thể Văn Lê sinh ra để viết tiểu thuyết. 12 tiểu thuyết đã trình làng của ông thực sự đều như những bức tranh toàn cảnh về một giai đoạn lịch sử của đất nước, cả chính sử và huyền sử. Mỗi khi nói về cảm hứng sáng tạo, Văn Lê như người lên đồng. Ông yêu, ghét, khóc, cười cùng nhân vật. Trước khi tiểu thuyết Người Chim và Phượng Hoàng ra đời, Văn Lê chia sẻ với tôi về lộ trình xây dựng nhân vật. Đôi khi cao hứng ông “chửi bới” các nhân vật phản diện, cứ như thể chúng hiện hữu trước mặt và là nguyên nhân gây ra hệ lụy cho dân tộc, cho đồng bào của mình. Chỉ riêng năm 1989, khi bộ đội tình nguyện Việt Nam rút khỏi Campuchia, Văn Lê cùng lúc cho ra đời 3 tiểu thuyết: Hai người còn lại trong rừng, Tình yêu cả cuộc đời và Khi tòa chưa tuyên án.

Trong số những người cầm viết cùng thời, hình như Văn Lê đứng đầu bảng về nhận giải thưởng, đặc biệt giải thưởng viết về người lính bộ đội Cụ Hồ và chiến tranh cách mạng. Các tiểu thuyết: Nếu anh còn được sống (1994), Mùa hè giá buốt (2004); Phượng Hoàng (2009)... được giải thưởng của Bộ Quốc phòng và giải quốc tế Văn học Mê Kông, đều xoay quanh cái trục chiến tranh và thân phận người lính. Đọc Văn Lê, người ta như được sống lại một thời chiến tranh gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng của dân tộc, đó không chỉ là phác thảo bức tranh mà chính ở tính cách nhân vật.

Thơ vẫn là sự chưng cất cảm xúc

“Nếu được chọn 1 trong 3 (thơ, văn xuôi và điện ảnh) tớ vẫn chọn thơ...”, Văn Lê đã chia sẻ với tôi như thế. Đó là cuối năm 2013, khi tôi mang tập bản thảo trường ca đầu tiên Phía sau mặt trời nhờ ông viết lời tựa. Sau một ngày một đêm, Văn Lê gọi điện cho tôi đến lấy bài. “Cho dù thơ rất khó, ngày càng khó, nhưng tớ vẫn yêu thơ, làm thơ. Chỉ khi ta thực sự xúc động mới có thể cho ra đời những câu thơ cứa vào hồn vía người đọc. Vì thế, ta có thể nói dối người này, người khác, điều này, điều khác nhưng không thể nói dối thơ. Thơ là sự chân thành, lương thiện nhất”, ông chia sẻ với tôi như thế.

Trái tim người lính Cụ Hồ, nhà thơ, nhà văn, nhà điện ảnh tài hoa và nhân hậu ấy đã đột ngột ngừng đập lúc 20 giờ 45 phút ngày 6-9-2020. Nghe tin ông về cõi vĩnh hằng, tôi cùng đồng đội chạy đến tiễn biệt ông. Trong ngôi nhà giản dị tại đường Văn Chung, phường 13, quận Tân Bình, TPHCM, ông nằm đó như vừa chợp mắt. Dẫu biết đó là quy luật muôn đời mà trái tim tôi vẫn rung lên nhịp lạ. Khóe mắt cay và đôi môi cắn chặt.
 

Văn Lê tên thật là Lê Chí Thụy sinh ngày 2-3-1949 tại xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Ông nhập ngũ năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Năm 1967, ông cùng đồng đội vượt Trường Sơn vào đánh giặc tại chiến trường Nam bộ.
Văn Lê không chỉ là nhà thơ, nhà văn mà còn là kịch tác gia, đạo diễn điện ảnh tài hoa và thành đạt.

Theo Trần Thế Tuyển - SGGP

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.

  • Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.

  • Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.

  • Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).

  • Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.

  • Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.

  • NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.

  • “Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.

  • Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.

  • Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.

  • Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).

  • Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).

  • Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.

  • Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.

  • Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.

  • Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...

  • Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.

  • Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.