Sớm thứ hai ngày 7-9, Trung tướng Triệu Xuân Hòa (Ba Hòa), nguyên Tư lệnh Quân khu 7, gọi cho tôi: “Anh nghe tin buồn chưa, bác Văn Lê đi đêm qua rồi”. Tôi không tin vào tai mình, hỏi lại: “Văn Lê nào, có phải nhà thơ Văn Lê?”. Giọng Ba Hòa buồn rười rượi: “Mới sớm qua, bác ấy còn đi qua ngõ nhà chúng tôi. Bác ấy vẫn cười vui mà?”.
Nhà thơ Văn Lê
Ra đi từ người lính
Với năng khiếu văn chương, Văn Lê từng được điều về Cục Chính trị Miền (Quân giải phóng miền Nam) làm thư viện. Đến năm 1974, ông sang công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng cùng các nhà văn, nhà thơ tên tuổi mặc áo lính như: Nam Hà, Triệu Bôn, Thanh Giang, Võ Trần Nhã, Trần Ninh Hồ, Lê Văn Vọng... Sau 30-4-1975, Văn Lê xuất ngũ, công tác tại Báo Văn nghệ giải phóng rồi Tuần báo Văn nghệ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam.
Tôi đọc thơ Văn Lê từ lâu, từ khi tôi còn làm lính chiến thuộc Trung đoàn 2 (Trung đoàn 174 - Đoàn Cao Bắc Lạng). Giọng thơ Văn Lê uyển chuyển, mượt mà, giàu chất dân ca, dễ chạm vào trái tim người đọc. “Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình”, phải đến cuối năm 1977, tôi mới trực tiếp gặp nhà thơ Văn Lê tại biên giới Tây Nam, khi Pôn Pốt xua quân sang tàn sát đồng bào ta ở Xa Mát, Thiện Ngôn (Tây Ninh). Khi cuộc chiến biên giới Tây Nam nổ ra, nhà thơ Văn Lê cùng nhà văn Trần Văn Tuấn (hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn TPHCM) tình nguyện tái ngũ. Các ông được bổ sung vào Phòng Tuyên huấn Quân khu 7 và cùng chúng tôi, những phóng viên Báo Quân khu 7, hành quân theo bộ đội ra biên giới. Những ngày sau đó, đọc ký sự, ghi chép của Văn Lê, chúng tôi càng trân quý trái tim nhân hậu của người lính.
Mãi khắc họa chân dung người lính
Văn Lê không chỉ thành danh, nổi tiếng trên “cánh đồng chữ nghĩa” mà ông còn thành công, bội thu trên lĩnh vực điện ảnh. Nếu trên diễn đàn văn chương, ông là tác giả của hàng chục đầu sách, trong đó có 3 tập thơ, 2 trường ca, 5 tập truyện và 12 tiểu thuyết thì trong lĩnh vực điện ảnh, Văn Lê là tác giả kịch bản, đạo diễn nhiều tác phẩm được Hội Điện ảnh trao giải thưởng lớn như: Kịch bản phim tài liệu xuất sắc, Đạo diễn xuất sắc, 1 giải Bông sen vàng, 5 giải Bông sen bạc, 2 giải Cánh diều vàng; 1 giải Galaxy của truyền hình Nhật Bản...
Như thể Văn Lê sinh ra để viết tiểu thuyết. 12 tiểu thuyết đã trình làng của ông thực sự đều như những bức tranh toàn cảnh về một giai đoạn lịch sử của đất nước, cả chính sử và huyền sử. Mỗi khi nói về cảm hứng sáng tạo, Văn Lê như người lên đồng. Ông yêu, ghét, khóc, cười cùng nhân vật. Trước khi tiểu thuyết Người Chim và Phượng Hoàng ra đời, Văn Lê chia sẻ với tôi về lộ trình xây dựng nhân vật. Đôi khi cao hứng ông “chửi bới” các nhân vật phản diện, cứ như thể chúng hiện hữu trước mặt và là nguyên nhân gây ra hệ lụy cho dân tộc, cho đồng bào của mình. Chỉ riêng năm 1989, khi bộ đội tình nguyện Việt Nam rút khỏi Campuchia, Văn Lê cùng lúc cho ra đời 3 tiểu thuyết: Hai người còn lại trong rừng, Tình yêu cả cuộc đời và Khi tòa chưa tuyên án.
Trong số những người cầm viết cùng thời, hình như Văn Lê đứng đầu bảng về nhận giải thưởng, đặc biệt giải thưởng viết về người lính bộ đội Cụ Hồ và chiến tranh cách mạng. Các tiểu thuyết: Nếu anh còn được sống (1994), Mùa hè giá buốt (2004); Phượng Hoàng (2009)... được giải thưởng của Bộ Quốc phòng và giải quốc tế Văn học Mê Kông, đều xoay quanh cái trục chiến tranh và thân phận người lính. Đọc Văn Lê, người ta như được sống lại một thời chiến tranh gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng của dân tộc, đó không chỉ là phác thảo bức tranh mà chính ở tính cách nhân vật.
Thơ vẫn là sự chưng cất cảm xúc
“Nếu được chọn 1 trong 3 (thơ, văn xuôi và điện ảnh) tớ vẫn chọn thơ...”, Văn Lê đã chia sẻ với tôi như thế. Đó là cuối năm 2013, khi tôi mang tập bản thảo trường ca đầu tiên Phía sau mặt trời nhờ ông viết lời tựa. Sau một ngày một đêm, Văn Lê gọi điện cho tôi đến lấy bài. “Cho dù thơ rất khó, ngày càng khó, nhưng tớ vẫn yêu thơ, làm thơ. Chỉ khi ta thực sự xúc động mới có thể cho ra đời những câu thơ cứa vào hồn vía người đọc. Vì thế, ta có thể nói dối người này, người khác, điều này, điều khác nhưng không thể nói dối thơ. Thơ là sự chân thành, lương thiện nhất”, ông chia sẻ với tôi như thế.
Trái tim người lính Cụ Hồ, nhà thơ, nhà văn, nhà điện ảnh tài hoa và nhân hậu ấy đã đột ngột ngừng đập lúc 20 giờ 45 phút ngày 6-9-2020. Nghe tin ông về cõi vĩnh hằng, tôi cùng đồng đội chạy đến tiễn biệt ông. Trong ngôi nhà giản dị tại đường Văn Chung, phường 13, quận Tân Bình, TPHCM, ông nằm đó như vừa chợp mắt. Dẫu biết đó là quy luật muôn đời mà trái tim tôi vẫn rung lên nhịp lạ. Khóe mắt cay và đôi môi cắn chặt.
Văn Lê tên thật là Lê Chí Thụy sinh ngày 2-3-1949 tại xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Ông nhập ngũ năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Năm 1967, ông cùng đồng đội vượt Trường Sơn vào đánh giặc tại chiến trường Nam bộ. Văn Lê không chỉ là nhà thơ, nhà văn mà còn là kịch tác gia, đạo diễn điện ảnh tài hoa và thành đạt. |
Theo Trần Thế Tuyển - SGGP
Phan nhân 1972 ( Hồi ức K15 trường Chuyên Phan Bội Châu Nghệ Tĩnh - NXB Hội Nhà văn, tháng 7/2019 ) có lẽ là một trong những cuốn sách thú vị nhất về tuổi học trò mà tôi từng đọc.
Ngày 6-7, tại Hà Nội, buổi giao lưu ra mắt bút ký chính luận “Một thời Đông Bắc” của tác giả Vũ Mão và ký sự tiểu thuyết “Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân” của nhà văn Ma Văn Kháng do NXB Kim Đồng tổ chức đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà văn, nhà phê bình văn học, các cựu học viên trường Thiếu sinh quân Việt Nam.
Ra mắt tập thơ đầu tay năm 2003, đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Học đã xuất bản 15 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ.
Văn học Nhật Bản đang để lại dấu ấn sâu đậm và mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh dòng văn học kinh điển gắn liền với những tác giả có ảnh hưởng trên thế giới, thị trường xuất bản trong nước còn chứng kiến cuộc “đổ bộ” của những tác giả đương đại với số lượng tác phẩm không hề nhỏ.
Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, đối với người nghệ sĩ, cô đơn tự xác lập hay cô đơn do ngoại cảnh, đó đều là những đặc ân. Bởi nhờ có cô đơn làm chất xúc tác, cảm thức sáng tạo mới bùng vỡ nơi người nghệ sĩ...” - Nhà văn Đỗ Chu cũng từng bảo: “Nghệ sĩ cô đơn được càng tốt!”.
Từ ba nguồn tư liệu chính sử, dã sử và dân gian, các nhà văn đã có cơ hội bung trổ trí tưởng tượng và khả năng hư cấu để cho ra đời những áng văn chương sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử. Hai tiểu thuyết lịch sử mới ra mắt công chúng là “Từ Dụ Thái hậu” của Trần Thùy Mai và “Thiên địa phong trần” của Hà Thủy Nguyên.
Nhân kỉ niệm 62 năm thành lập (17/6/1957 – 17/6/2019), Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản mới tập truyện Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng. Tập truyện gồm ba truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi: Đôi chim tan lạc, Dưới chân Cầu Mây vàCháu gái người mãi võ họ Hoa.
NXB Hà Nội và Thư viện Hà Nội tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Thời cuộc và Văn hóa” của nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam
Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Huy Cận là người đem tâm nguyện “làm bục nhảy đưa sự sống lên cao”. Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu có dịp quần tụ nhớ về hồn thơ Huy Cận dịp 100 năm ngày sinh của ông.
“Ba năm tồn tại. Thời gian không dài. Nhưng kỷ niệm một thời niên thiếu tươi đẹp hào hùng trong gian khổ làm sao có thể quên!”. Sau hơn 70 năm, khi những mảnh ký ức bắt đầu mờ nhòa, nhà văn Ma Văn Kháng đã “gạn lấy chút sức lực còn lại”, “rờ rẫm nhớ lại những gì đã trải qua”, để tái hiện chân dung thế hệ “măng non cách mạng” giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nhà văn Trần Thùy Mai vừa ra mắt bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ Dụ thái hậu” sau một thời gian dài im tiếng. Điều thú vị, cuốn sách đề cập đến lịch sử nhưng được tác giả viết bằng văn phong thuần Việt, với ngôn ngữ nhuần nhị để thu hút độc giả trẻ.
Có thể nói, tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam chính là nhà văn Hồ Biểu Chánh. Với kho tàng đồ sộ 64 cuốn tiểu thuyết, ông được mệnh danh là “người kể chuyện đời” đầy lôi cuốn và có cá tính.
Giữ một vị trí khiêm tốn trong đời sống văn chương, nhưng thể loại phi hư cấu thời gian qua vẫn đều đặn đến với độc giả. Thậm chí, nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn, được in hàng chục ngàn bản. Chỉ có điều, trong những bảng vàng văn chương trong nước, hiếm khi những tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu được xướng tên.
Nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2019), NXB Kim Đồng vừa cho ra mắt tập thơ “Điện Biên chiến thắng, Điện Biên thơ” của Đại tá, nhà thơ Ngô Vĩnh Bình tuyển chọn và giới thiệu.
Sau 65 năm, những kinh nghiệm lịch sử, bài học quý giá từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn được học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Không chỉ là góc nhìn riêng của mỗi bên, việc hợp tác để khai thác khối tư liệu, tài liệu lưu trữ - di sản chung của hai dân tộc Pháp - Việt nhằm có thêm sự đối chứng, từ đó làm rõ hơn lịch sử.
“ĐIỆN BIÊN PHỦ: 13/3-07/5/1954” là cuốn sách chuyên khảo của Tiến sĩ, Đại úy người Pháp Ivan Cadeau. Cuốn sách cung cấp các tài liệu lưu trữ của Pháp về sự kiện Điện Biên Phủ và chiến tranh tại Đông Dương, trong đó có nhiều tài liệu chưa từng công bố tại Việt Nam.
Ngày 30/4/1975 mãi là một ký ức tồn tại sâu thẳm trong tâm trí của những người đã trực tiếp chứng kiến. Đặc biệt là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, người đã dành gần như cả cuộc đời cầm bút của mình để văn bản hóa lại những ký ức lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một thời của dân tộc Việt Nam.
Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.
Sáng ngày 22/4/2019, tại thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành buổi toạ đàm khoa học, giới thiệu công trình Nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kì 1865-1954.
Sách của nhà phê bình khơi gợi tình yêu cuộc sống qua những vẻ đẹp giản dị, nhân văn.