Văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam...

14:35 18/03/2008
Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.

Làng quê đất Việt

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG VIÊT TRONG TÁC PHẨM "VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VIÊT TRUYỀN THỐNG VÀ HIÊN ĐẠI" CỦA NGUYỄN HỒNG PHONG

 


Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.
Kết thúc Phần một bàn về Văn hóa chính trị trong xã hội Việt Nam truyền thống phương Đông Khổng giáo, tác giả chỉ đích danh Khổng giáo "là một tác nhân văn hóa đã gây trở ngại, kìm hãm làm chậm sự phát triển" (xem tr. 135), nhưng mở đầu phần này là những trang viết rất hay về những truyền thống tốt đẹp của Khổng giáo nguyên thủy, những truyền thống này hẳn là đã thấm vào tâm thức người Việt những thế kỷ trước và trong tâm thức người Việt hiện đại không thể nói là đã mai một hoàn toàn. Trước nghịch lý này, một câu hỏi được đặt ra: phải chăng cái Khổng giáo mà tác giả lên án là Tân Khổng giáo (Hán Nho, Tống Nho) rất khác với Khổng giáo nguyên thủy đã từng được Phan Chu Trinh ca ngợi và bẵng đi một thời gian rất dài, những năm gần đây mới được một số học giả quan tâm.
Phân tích ảnh hưởng lớn và lâu dài của Khổng giáo nguyên thủy tới văn hóa chính trị truyền thống ở Việt Nam, tác giả nhấn mạnh những truyền thống nhân văn, dân chủ mà những tư tưởng tiêu biểu là: nhân nghĩa; lòng dân là ý trời; dân là quý; dân là gốc nước; vua là thuyền, dân là nước, nước chở thuyền, nhưng nước cũng làm đắm thuyền... Một khi không phải vua quan mà dân mới là quyền lực tuyệt đối, có thể nói đến một tư tưởng "sợ dân" như một nét đặc thù của tư tưởng Nho giáo "mà ở châu Âu hoặc ở các nền văn hóa khác ngoài Nho giáo không thấy có tư tưởng này" (tr.24)
Từ ngàn xưa xã hội Việt là một xã hội phương Đông. "...chìa khóa của chế độ phương Đông, đó là việc không có chế độ tư hữu ruộng đất" (Lê Nin) (xem tr. 48). Không phải ngẫu nhiên tác giả đã dành cả một chương (Ch. II) để nghiên cứu sự biến đổi của tương quan giữa quốc gia-công hữu (tức là sở hữu nhà nước và sở hữu công xã) và tư hữu  về ruộng đất trong xã hội Việt suốt thời trung đại. Những thế kỷ đầu thời kỳ độc lập, sở hữu nhà nước và sở hữu công xã (gộp lại và gọi tắt là quốc gia-công hữu) về ruộng đất chiếm ưu thế. Do những kẽ hở của chế độ sở hữu này,tư hữu (tức là sở hữu tư nhân) về ruộng đất hình thành và phát triển. Tác giả nêu lên hai đợt tư hữu hóa ruộng đất trong lịch sử trung đại Việt .
1. "Đến đầu thế kỷ XIII, dưới thời Trần Thái Tông, nhà nước quý tộc ban hành những chính sách nhằm khẳng định quyền tư hữu ruộng đất, cho phép phát triển chế độ tư hữu ruộng đất. Đó là điều lệnh năm 1254 cho bán ruộng công làm ruộng tư "mỗi diện ruộng là 5 quan tiền cho nhân dân mua làm của tư" ..." (tr.62)
2. "Trong chính sách quan điền đời Lê sơ, quý tộc từ tước vương cho đến tước bá, ngoài phần được cấp ruộng đất được hưởng một đời, có phần được cấp vĩnh viễn. Ví dụ cao nhất là thân vương được cấp 1.530 mẫu ruộng dể thu tô thuế một đời và 600 mẫu ruộng thế nghiệp (H.N.H.tô đậm) làm tư sản vĩnh viễn. Tước bá ruộng thế nghiệp là 200 mẫu. Nói chung ruộng thế nghiệp chiếm 25% số ruộng được phong cấp" (tr.81)

 

Những quá trình tư hữu hóa ruộng đất một mặt có tác động giải thể sở hữu công xã, mặt khác góp phần phát triển sở hữu tiểu nông và kinh tế tiểu nông.
Tác giả đưa ra một nhận định quan trọng về khuynh hướng tư hữu ruộng đất ở Việt thời trung đại:
"Thực ra, khuynh hướng tư hữu ruộng đất nói chung cũng như khuynh hướng phát triển sở hữu lớn về ruộng đất đã không phát triển theo hướng đi lên, tập trung ruộng đất tuyệt đối như thời kỳ phong kiến hóa ruộng đất ở châu Âu... Ở đây sự tập trung ruộng đất lại theo quy luật: tập trung-phân tán-rồi lại tập trung-phân tán".
Tác giả đã chỉ ra hai nguyên nhân tác động tới khuynh hướng này:
1 "Các làng xã... ngăn trở và chống lại sự phát triển chế độ sở hữu lớn về ruộng đất". (tr.89). Làng xã bảo vệ ruộng công, bảo vệ những loại ruộng không bao giờ có thể mua bán chuyển nhượng, ví dụ ruộng hậu thần, hậu Phật.
2 "Nhà nước đã hạn chế sự phát triển địa chủ tư nhân về ruộng đất" (tr.89). Tác giả nêu ra hai đợt quốc hữu hóa do nhà nước phong kiến chủ trì mà tác động là sự kìm hãm, gây trở ngại cho khuynh hướng phát triển tư hữu về ruộng đất theo chiều hướng đi lên, tập trung ruộng đất quy mô lớn.
- Năm 1397, Hồ Quý Ly lập phép hạn điền "nhằm tước bỏ sở hữu lớn của quý tộc địa chủ", "chỉ còn lại ruộng của tiểu nông bao gồm cả phú nông" (xem tr.74)
- "Vào đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn sau khi thiết lập được sự thống trị của mình trên đất nước thống nhất, liền thực hiện hàng lọat chính sách nhằm khôi phục chế độ sở hữu nhà nước và chế độ sở hữu ruộng đất công" (tr.90)
Do hai nguyên nhân nói trên - cũng phải kể thêm một nguyên nhân nữa là "chế độ chia gia tài đều cho con trai và con gái" - trong lịch sử trung đại Việt Nam, chế độ tư hữu ruộng đất tuy có phát triển nhưng phát triển một cách ỳ ạch, tâm tịt và kèm theo, ý thức tư hữu về ruộng đất có thức tỉnh nhưng thức tỉnh một cách nửa vời. Sự thức tỉnh nửa vời này phản ánh một thực trạng hệ tư tưởng và pháp lý-cũng là một thực trạng văn hóa - của xã hội Việt Nam truyền thống: "Trên nguyên lý và theo truyền thống quyền sở hữu tối cao về ruộng đất toàn quốc thuộc về nhà nước, đứng đầu là nhà vua, quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất là thiêng liêng, bất khả xâm phạm chưa bao giờ được xác nhận trên pháp luật Việt Nam." (tr.91)
Phải chăng tình trạng phát triển ỳ ạch, tậm tịt của chế độ tư hữu ruộng đất và thức tỉnh nửa vời của ý thức tư hữu ruộng đất là chìa khóa để hiểu xã hội phương Đông truyền thống và "phương thức sản xuất châu Á"? Phải chăng tình trạng này là nguyên nhân sâu xa của sự trì trệ của xã hội Việt truyền thống những thế kỷ cuối thời trung đại, đặc biệt sang thế kỷ XIX khi đứng trước âm mưu xâm lược của đế quốc phương Tây? Tôi đặt ra những câu hỏi này nhân đọc bài báo Sự thức tỉnh vĩ đại của Latous, một học giả Pháp, trong đó sự xuất hiện của ý thức về tư hữu được xem xét như một "sự thức tỉnh vĩ đại", nó đã, "trở thành tác nhân kích thích mang tính xã hội lớn lao đối với sự phát triển". Tư hữu là một trong những nghịch lý lớn của nhân loại. Tác giả bài báo đã triển khai xuất sắc một ý tưởng của Mác: mặt trái của tư hữu bộc lộ ngày càng trầm trọng, đó là khủng hoảng, lãng phí, thất nghiệp... thế nhưng không thể phủ nhận công lao to lớn của nó trong lịch sử tiến hóa nhân loại. Tôi đặc biệt chú ý luận điểm sau đây trong bài báo:

 

... Ở phương Đông sự thức tỉnh diễn ra sớm hơn, có lẽ khoảng 6000 năm trước hoặc trước nữa. Điều này đã cho phép xã hội phương Đông đạt được những thành tựu vượt bực so với phương Tây. Tuy nhiên do sự thức tỉnh ở khu vực này mang tính chất nửa vời (tôi tô đậm H.N.H.), biểu hiện ở sự duy trì công hữu về ruộng đất, thứ tư liệu sản xuất quan trọng nhất, cho đến tận thế kỷ XIX, vì thế phương Đông đã không thể đi nhanh được. Ngược lại, sự thức tỉnh ở phương Tây diễn ra muộn hơn nhiều, nhưng lại triệt để (tôi tô đậm H.N.H.) hơn. Ở phương Tây ngay từ thời cổ đại ruộng đất đã dựa trên cơ sở tư hữu. Sở hữu tư nhân về ruộng đất đã thúc đẩy việc tăng năng suất, cải tiến nông cụ, đẩy mạnh sự phân công lao động, và từ đó là trao đổi, thương mại. Tất cả những điều đó cuối cùng làm phân chia giai cấp ngày càng sâu sắc và thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Vì thế phương Tây đã đi nhanh hơn và cục điện thế giới từ vài thế kỷ trở lại đây nghiêng hẳn về phương Tây. Tuy vậy, cuối thế kỷ XX đã xuất hiện những nhân tố mới. Phương Đông, khởi đầu là Nhật Bản, bắt đầu nhận thấy thiếu sót trong nhận thức của mình. Và lần thức tỉnh thứ hai này đã đem lại cho châu Á một làn sóng thứ hai của sự phát triển... (số Tạp chí đã dẫn, tr.25).
Làng Việt được tác giả khẳng định như một hiện tượng nổi bật của văn minh Việt và lịch sử  văn minh.

 

Đặc trưng của văn minh Việt là Làng-nước (làng-nước chứ không phải là nước-nhà như Trung Hoa).

 

Nếu quốc gia Hy Lạp cổ đại là liên minh của những đô thị thì quốc gia Việt là liên minh của những làng xã.
Các làng xã làm nông nghiệp, các làng xã cũng làm công nghiệp và thương nghiệp. Trong làng không chỉ có nông, có cả công, thương, sĩ. (xem tr.98, 99)
Làng Việt truyền thống thuộc kiểu "làng công xã" (nông nghiệp)
Tác giả nhấn mạnh thế nhị nguyên của làng công xã thể hiện trên hai mặt: cá nhân và cộng đồng, chung và riêng.
Những cái chung là: ruộng đất công, là lãnh thổ làng với lũy tre bao bọc, là việc chống cướp, chống thiên tai và hàng loạt nghĩa vụ liên đới trách nhiệm khác.
Những cái riêng là: ngôi nhà và tài sản riêng của gia đình cá thể, là phần ruộng được chia "mà cá nhân làm chủ và ra sức khai thác giữa hai kỳ phân chia lại, đó là cái bờ ruộng có thể được làm rộng ra, là nước có thể tháo riêng cho vào ruộng hoặc để bắt cá...", cái riêng còn  được phát huy nhờ nỗ lực cá nhân "có học vị, chức tước phẩm hàm hay tài sản để leo lên các thang bậc cao trong làng..." (xem tr.132, 133)
Tính nhị nguyên của làng xã "đã tạo nên tính hai mặt của tính cách con người tiểu nông Việt Nam... vừa vị tha, có tinh thần cộng đồng, đoàn kết, tương trợ, đồng thời hay kèn cựa, hiếu danh, tư lợi" (tr.133)
Trong quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa chung và riêng tác giả có một nhận xét lý thú về một "điệu múa" khá quen thuộc và phổ cập, đó là "điệu múa" "vẫy vùng để biến chung thành riêng, để ngoi lên vị trí cao hơn trong xã hội làng".
Chương 7 phần một Tác nhân văn hóa của sự chậm phát triển là một chương quan trọng. Đặt vấn đề: Việt hội đủ những tác nhân kinh tế để phát triển (tài nguyên nông nghiệp tương đối phong phú, lực lượng lao động dồi dào, cần cù, tỷ lệ người biết chữ rất lớn...) vì sao kinh tế lạc hậu trì trệ? tác giả đưa ra hướng nghiên cứu: phải giải thích sự lạc hậu của nền kinh tế Việt là ở trong văn hóa (tr.135).
Và đã chỉ ra đích danh:
"Khổng giáo... là một tác nhân văn hóa đã gây trở ngại, kìm hãm làm chậm sự phát triển".
Trong xã hội Việt trung đại, nhân vật trung tâm đứng đầu bảng xã hội là sĩ. Và "sĩ ở đây là quan lại". Xã hội phân thành hai tầng lớp chính : quan và dân. Vì nhà nước (vua chúa, quan lại) "chiếm toàn bộ thặng dư của người lao động, cho nên trong xã hội Việt cũng như trong xã hội Trung Quốc cũ, quan là tầng lớp duy nhất có thế lực" (tr'135). Vì vậy, các gia đình trung lưu đều đầu tư vào con đường đi học để làm quan. Giáo dục khoa cử Nho giáo chủ yếu đào tạo những người làm quan, không đào tạo chuyên gia. Một xã hội công kỹ bị coi là mạt nghệ, thương bị khinh rẻ, lại thiếu hụt chuyên gia... làm sao kinh tế phát triển được?
Một nguyên nhân khác được tác giả nêu lên cũng nằm trong văn hóa :
"Lớp trung lưu - lực lượng chủ yếu trong xã hội đã không đóng được vai trò động lực thúc đẩy sự phát triển. Lối sống "tiêu dùng" của xã hội cộng đồng Khổng giáo đã làm cho lớp người này phung phí của cải tích lũy trong những ma chay, cưới xin giỗ chạp, cúng bái, hội hè, thết đãi chè chén (tr.137).
"Tóm lại, nguồn gốc của sự nghèo khổ là nằm trong văn hóa" (tr.137), đây là câu kết luận của chương này.
HOÀNG NGỌC HIẾN
(nguồn: TCSH, 1.1999)
------------------------------------------
* Nguyễn Hồng Phong - Văn hóa chính trị Việt , truyền thống và hiện đại - Trung tâm nghiên cứu và tư vấn về phát triển & NXB Văn hóa Thông tin - Hà Nội 1998.
* Sự thức tỉnh vĩ đại - Lotous, bản dịch của Ngô Tự Lập, tạp chí tia sáng số 10/1998.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • “Có lần tôi hỏi anh Học: Tư tưởng cách mệnh của mày nảy ra từ hồi nào? ​Anh đáp: Từ năm độ lên mười tuổi! Hồi ấy tao còn học chữ Nho ở nhà quê...”.

  • NGÔ MINH

    Trong các tập thơ xuất bản ở Huế trong mấy năm lại đây, "Ngọn gió đi tìm" là một trong số rất ít tập được đọc giả mến mộ, có thể nói được rằng: đó là một tập thơ hay! Tập thơ tạo được sự cuốn hút, sự nhập cuộc của người đọc.

  • “Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.

  • Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.

  • Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.

  • Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng  bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.

  • Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    (Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)

  • Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.

  • 17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của  Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.

  • Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.

  • Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.

  • NGỌC THANH 

    Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.

  • “Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.

  • ĐẶNG HUY GIANG

    Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.

  • Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...

  • BÍCH THU
    (Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)

    Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.

  • Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.