Vâlmki

10:37 25/05/2012

Ngoài các tác phẩm lớn về Việt Nam như Vạn Xuân, Lãn Ông, mấy năm gần đây, nữ văn sĩ Pháp Yveline Feray đã cho ra đời những tập truyện thần thoại và dân gian của các nước châu Á như Việt Nam, Trung Hoa, Campuchia, Tây Tạng. Vào cuối năm 2010, bà đã cho xuất bản tập “Chuyện kể của bà ngoại Ấn Độ”.

Vâlmiki và đệ tử - Ảnh: internet

Vâlmki là một vị thần trong trường ca nổi tiếng Ấn Độ Râmâyana nói về một con người tuy đã có lỗi lầm nhưng đã thực sự hướng thiện nhờ biết soi vào tấm gương tuyệt vời của thần Râma. Xin giới thiệu phần trích dịch chuyện “Vâlmki” trong tập truyện ấy của nhà văn Lê Trọng Sâm.  


YVELINE FERAY

Vâlmki


Thế rồi, quanh hai bờ sông Tamasa yên tĩnh, một ngày nọ ra đời một tên cướp đường trai trẻ đáng gờm tên là Ratnakra. Hàng ngày, hắn giết hại súc vật để ăn thịt và cả khách bộ hành để cướp tài sản của họ.

Một hôm, nhà hiền triết Narada, người lữ hành bất tận đã đi qua Ba Thế giới(1) để xưng tụng niềm vinh quang của thần Vishnu(2) đã mạo hiểm đến vùng phụ cận này. Nhà hiền triết hỏi hắn ta:

- Này Ratnakra, cứ mỗi ngày giết người và cướp của như thế này, ngươi có sợ chăng là đã làm nặng nề thêm nghiệp chướng của ngươi? Bởi vì theo điều luật khắc nghiệt của nghiệp chướng, mỗi người tại thế phải đón nhận những điều tốt lành cũng như những điều xấu xa do những gì họ đã gieo ra trên đời. Nhà ngươi có suy nghĩ gì về những hậu quả các tội ác của mình?

- Trời! Tôi giết người và cướp của cũng là để nuôi vợ và bầy con tôi, chắc rồi chúng nó sẽ chia sẻ với tôi những tội lỗi tày trời này. Như vậy là tội lỗi của tôi sẽ bớt nặng nề một phần.

- Nhà ngươi có đoán chắc điều ấy không? Nhà hiền triết Narada nhắc lại. Nếu ta mà ở vào vị trí của nhà ngươi, ta sẽ chạy ngay đến hỏi vợ con mình xem sao. Vậy ngươi hãy đi đi, ta sẽ chờ đây khi ngươi trở về.
 

Nhà hiền triết Narada và Valmiki - Ảnh: wikipedia


Không lâu lắm, Ratnakara trở về với bộ mặt sững sờ đau đớn của một tên cướp đường cả đời không chút thương hại ai bao giờ. Được sự bảo vệ của mấy đứa con, vợ hắn trả lời là họ không chút mảy may chịu trách nhiệm với những gì hắn cung cấp những nhu cầu cho gia đình. Vợ và các con hắn không yêu cầu hắn đi giết người cướp của. Vậy chỉ có hắn ta là phải trả lời cho những hành động tội lỗi của hắn và phải chịu đựng mọi hậu quả mà thôi. Rồi hắn tự hỏi với một giọng nói buồn rầu:

- Vậy từ nay ta phải làm gì để cho vơi nhẹ đi nghiệp chướng này?

Nhà hiền triết căn dặn anh ta phải ngồi theo kiểu tọa thiền và xưng lên từng tiếng từng tiếng một tên thần Râma mới hầu mong được con đường giải thoát cho linh hồn mình. Liền sau đó, Ratnakara tập ngồi trầm tư dưới một gốc cây nhưng miệng hắn lại nhắc đi nhắc lại không phải tên thần Râma mà cứ lắp lắp lắp bắp “mara” (có nghĩa là “giết, giết”) trong khi ở bên ngoài nhà hiền triết đang ca ngợi thần Vishnu(3) và loan truyền tin tốt lành.

Hắn cứ nhắc đi nhắc lại mãi “Marâmarâma” nhưng rồi theo dòng thời gian trôi đi, trong miệng Ratnakara lại rõ ràng trở thành hai tiếng “Râma... Râma”.

*

Những năm về sau, khi trở lại khu rừng Dandaka này, nhà hiền triết nghe thấy một tiếng ầm ì vang dài ra như một lời cầu kinh, đúng hơn như là một giọng hát rất nhẹ nhàng bắt nguồn từ một con suối xa. Giọng hát rất nhẹ nhàng ấy hướng bước đi nhà hiền triết đến một mô đất dưới chân một thân cây cao lớn.

“Râma... Râma...”. Trong mô đất cứ vọng ra mãi giọng hát đó mà nhìn cho kỹ thì đó là một tổ mối to đã ôm trùm hoàn toàn thân hình Ratnakara trong tư thế trầm tư mặc tưởng. Rõ ràng đây là một Ratnakara đã hoàn toàn quên đi thế giới bên ngoài, một Ratnakara trong sự hòa hợp với Bhagavân, Đấng Tối cao của muôn loài.

Nở một nụ cười, Narada gọi tên mới của hắn, cái tên phù hợp với sự chào đời mới của anh ta “Vâlmki! Vâlmki!”. Và nói: “Hãy đến đây! Từ trong tổ mối, nhà ngươi đã được sinh ra qua một cuộc sống mới. Hãy đứng dậy đi thôi!”.

Và từ trong tổ mối đang đổ sụp xuống, Vâlmki mặt mày rạng rỡ đang đứng dậy.

*

Có một ngày, Vâlmki ướm hỏi nhà hiền triết: “Ở trên đời này có tồn tại chăng một con người thực sự hoàn chỉnh?”. Nhà hiền triết liền kể cho anh ta nghe sự tích anh hùng của Râma, Ngài vừa là người vừa là thần, đó là sự hóa thân lần thứ bảy của thần Vishnu. Và như trong tuyệt tác Bhagavad Gita (4) đã nói lên vai trò của Vishnu: “Bao nhiêu lần mà trật tự bị lung lay chao đảo, bao nhiêu lần mà sự hỗn loạn ra đời, Ta xuất hiện. Bao thời gian qua, Ta được sinh ra để chở che cho cái tốt phát triển và làm tan đi cái xấu xa tội lỗi dưới ánh sáng vinh quang của “Công lý””.

Được nghe kể chuyện về thần Râma và Sita, người vợ của thần, Vâlmki thấy rõ thấm thía sâu sắc một niềm vui thần diệu lan qua người mình. Và trong trạng thái hưng phấn đó, Vâlmki chìm đắm trong sự ngưỡng mộ vẻ đẹp bên trong xem như là một thứ châu báu quý giá, điều đó đang có trong người anh.
 

Ảnh: wikipedia

Một buổi sáng, khi anh đang ngồi lặng im sau cuộc tắm rửa theo nghi lễ bên bờ Tamasa yên tĩnh, đôi mắt anh bỗng nhiên bị cuốn hút bởi một đôi chim chích chòe mỏ cong đang cùng một đà bay đến đậu lại trên một cành cây trước mắt. Và chẳng chút nghi ngờ, chúng mở đầu cuộc yêu đương khi nhìn nhau bằng đôi mắt đằm thắm, chúng xa nhau ra vài bước để rồi nhanh chóng xích lại gần nhau, âu yếm nhau qua hai đầu mỏ nhỏ và các cánh như trao đổi càng gần hơn những chiếc hôn nồng nàn để rồi kết thúc ôm ghì lấy nhau và hòa vào nhau trong lần đập cánh đầy hoan lạc.

Vâlmki đang ở đó, lắng ngắm đôi chim hiền lành âu yếm giao hoan, anh vô cùng thú vị trong sự say sưa trước cảnh mặt trời lên. Và trước tất cả tình yêu và vẻ đẹp hoàn mỹ đó, trong khoảnh khắc miên trường ấy, toàn thân anh rung lên niềm xúc động mãnh liệt muốn hòa đồng với tất cả những gì đang sống, đang hít thở, đang yêu đương trên cõi đất này.

Thế rồi một mũi tên vút tới xuyên qua, con chim đực choáng người rơi xuống trong khi con chim cái bỗng chợt bâng khuâng đau đớn chia lìa người yêu của mình có chiếc mào màu đồng đang lúc giao hoan, con chim cái trút ra một khúc ca nao lòng.

- Hỡi người đi săn! Vâlmki la to lên trong niềm đau đớn cùng cực. Vì có thể linh hồn của người sẽ không bao giờ được ca ngợi trong tất cả các cuộc sống tương lai nên người đã bắn vào đôi chim trong cái phút vô cùng cao quý của tình yêu đời chúng.

Với hai câu thơ trên tự nhiên trào ra từ quả tim đến đôi môi của mình, tâm hồn Vâlmki đang rộng mở cho một tình huynh đệ vĩnh cửu, anh thực sự đi đến biển đại dương thần tiên đầy thi tứ để trường ca Râmâyana bao la và huyền diệu có thể khai mào.

Lê Trọng Sâm dịch    
(SH279/5-12)


-----------
1 - Là Trời, Đất và Dưới lòng đất.
2 - Râma, nhân vật chính của trường ca Râmâyana, lần hóa thân thứ bảy của thần Vishnu.
3 - Vishnu: một trong những vị thần chính của Ấn Độ giáo cùng với Brahmâ và Shiva.
4 - Bhagavad Gita: khúc ca của con người hạnh phúc. Là phần triết học của trường ca Ấn Độ Mahabharata.
 









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.

  • TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết.                                                                                                                 TSCH

  • JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.

  • A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".

  • ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

  • ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.