Ngoài các tác phẩm lớn về Việt Nam như Vạn Xuân, Lãn Ông, mấy năm gần đây, nữ văn sĩ Pháp Yveline Feray đã cho ra đời những tập truyện thần thoại và dân gian của các nước châu Á như Việt Nam, Trung Hoa, Campuchia, Tây Tạng. Vào cuối năm 2010, bà đã cho xuất bản tập “Chuyện kể của bà ngoại Ấn Độ”.
Vâlmiki và đệ tử - Ảnh: internet
Vâlmki là một vị thần trong trường ca nổi tiếng Ấn Độ Râmâyana nói về một con người tuy đã có lỗi lầm nhưng đã thực sự hướng thiện nhờ biết soi vào tấm gương tuyệt vời của thần Râma. Xin giới thiệu phần trích dịch chuyện “Vâlmki” trong tập truyện ấy của nhà văn Lê Trọng Sâm.
YVELINE FERAY
Vâlmki
Thế rồi, quanh hai bờ sông Tamasa yên tĩnh, một ngày nọ ra đời một tên cướp đường trai trẻ đáng gờm tên là Ratnakra. Hàng ngày, hắn giết hại súc vật để ăn thịt và cả khách bộ hành để cướp tài sản của họ.
Một hôm, nhà hiền triết Narada, người lữ hành bất tận đã đi qua Ba Thế giới(1) để xưng tụng niềm vinh quang của thần Vishnu(2) đã mạo hiểm đến vùng phụ cận này. Nhà hiền triết hỏi hắn ta:
- Này Ratnakra, cứ mỗi ngày giết người và cướp của như thế này, ngươi có sợ chăng là đã làm nặng nề thêm nghiệp chướng của ngươi? Bởi vì theo điều luật khắc nghiệt của nghiệp chướng, mỗi người tại thế phải đón nhận những điều tốt lành cũng như những điều xấu xa do những gì họ đã gieo ra trên đời. Nhà ngươi có suy nghĩ gì về những hậu quả các tội ác của mình?
- Trời! Tôi giết người và cướp của cũng là để nuôi vợ và bầy con tôi, chắc rồi chúng nó sẽ chia sẻ với tôi những tội lỗi tày trời này. Như vậy là tội lỗi của tôi sẽ bớt nặng nề một phần.
- Nhà ngươi có đoán chắc điều ấy không? Nhà hiền triết Narada nhắc lại. Nếu ta mà ở vào vị trí của nhà ngươi, ta sẽ chạy ngay đến hỏi vợ con mình xem sao. Vậy ngươi hãy đi đi, ta sẽ chờ đây khi ngươi trở về.
![]() |
Nhà hiền triết Narada và Valmiki - Ảnh: wikipedia |
Không lâu lắm, Ratnakara trở về với bộ mặt sững sờ đau đớn của một tên cướp đường cả đời không chút thương hại ai bao giờ. Được sự bảo vệ của mấy đứa con, vợ hắn trả lời là họ không chút mảy may chịu trách nhiệm với những gì hắn cung cấp những nhu cầu cho gia đình. Vợ và các con hắn không yêu cầu hắn đi giết người cướp của. Vậy chỉ có hắn ta là phải trả lời cho những hành động tội lỗi của hắn và phải chịu đựng mọi hậu quả mà thôi. Rồi hắn tự hỏi với một giọng nói buồn rầu:
- Vậy từ nay ta phải làm gì để cho vơi nhẹ đi nghiệp chướng này?
Nhà hiền triết căn dặn anh ta phải ngồi theo kiểu tọa thiền và xưng lên từng tiếng từng tiếng một tên thần Râma mới hầu mong được con đường giải thoát cho linh hồn mình. Liền sau đó, Ratnakara tập ngồi trầm tư dưới một gốc cây nhưng miệng hắn lại nhắc đi nhắc lại không phải tên thần Râma mà cứ lắp lắp lắp bắp “mara” (có nghĩa là “giết, giết”) trong khi ở bên ngoài nhà hiền triết đang ca ngợi thần Vishnu(3) và loan truyền tin tốt lành.
Hắn cứ nhắc đi nhắc lại mãi “Marâmarâma” nhưng rồi theo dòng thời gian trôi đi, trong miệng Ratnakara lại rõ ràng trở thành hai tiếng “Râma... Râma”.
*
Những năm về sau, khi trở lại khu rừng Dandaka này, nhà hiền triết nghe thấy một tiếng ầm ì vang dài ra như một lời cầu kinh, đúng hơn như là một giọng hát rất nhẹ nhàng bắt nguồn từ một con suối xa. Giọng hát rất nhẹ nhàng ấy hướng bước đi nhà hiền triết đến một mô đất dưới chân một thân cây cao lớn.
“Râma... Râma...”. Trong mô đất cứ vọng ra mãi giọng hát đó mà nhìn cho kỹ thì đó là một tổ mối to đã ôm trùm hoàn toàn thân hình Ratnakara trong tư thế trầm tư mặc tưởng. Rõ ràng đây là một Ratnakara đã hoàn toàn quên đi thế giới bên ngoài, một Ratnakara trong sự hòa hợp với Bhagavân, Đấng Tối cao của muôn loài.
Nở một nụ cười, Narada gọi tên mới của hắn, cái tên phù hợp với sự chào đời mới của anh ta “Vâlmki! Vâlmki!”. Và nói: “Hãy đến đây! Từ trong tổ mối, nhà ngươi đã được sinh ra qua một cuộc sống mới. Hãy đứng dậy đi thôi!”.
Và từ trong tổ mối đang đổ sụp xuống, Vâlmki mặt mày rạng rỡ đang đứng dậy.
*
Có một ngày, Vâlmki ướm hỏi nhà hiền triết: “Ở trên đời này có tồn tại chăng một con người thực sự hoàn chỉnh?”. Nhà hiền triết liền kể cho anh ta nghe sự tích anh hùng của Râma, Ngài vừa là người vừa là thần, đó là sự hóa thân lần thứ bảy của thần Vishnu. Và như trong tuyệt tác Bhagavad Gita (4) đã nói lên vai trò của Vishnu: “Bao nhiêu lần mà trật tự bị lung lay chao đảo, bao nhiêu lần mà sự hỗn loạn ra đời, Ta xuất hiện. Bao thời gian qua, Ta được sinh ra để chở che cho cái tốt phát triển và làm tan đi cái xấu xa tội lỗi dưới ánh sáng vinh quang của “Công lý””.
Được nghe kể chuyện về thần Râma và Sita, người vợ của thần, Vâlmki thấy rõ thấm thía sâu sắc một niềm vui thần diệu lan qua người mình. Và trong trạng thái hưng phấn đó, Vâlmki chìm đắm trong sự ngưỡng mộ vẻ đẹp bên trong xem như là một thứ châu báu quý giá, điều đó đang có trong người anh.
![]() |
Ảnh: wikipedia |
Một buổi sáng, khi anh đang ngồi lặng im sau cuộc tắm rửa theo nghi lễ bên bờ Tamasa yên tĩnh, đôi mắt anh bỗng nhiên bị cuốn hút bởi một đôi chim chích chòe mỏ cong đang cùng một đà bay đến đậu lại trên một cành cây trước mắt. Và chẳng chút nghi ngờ, chúng mở đầu cuộc yêu đương khi nhìn nhau bằng đôi mắt đằm thắm, chúng xa nhau ra vài bước để rồi nhanh chóng xích lại gần nhau, âu yếm nhau qua hai đầu mỏ nhỏ và các cánh như trao đổi càng gần hơn những chiếc hôn nồng nàn để rồi kết thúc ôm ghì lấy nhau và hòa vào nhau trong lần đập cánh đầy hoan lạc.
Vâlmki đang ở đó, lắng ngắm đôi chim hiền lành âu yếm giao hoan, anh vô cùng thú vị trong sự say sưa trước cảnh mặt trời lên. Và trước tất cả tình yêu và vẻ đẹp hoàn mỹ đó, trong khoảnh khắc miên trường ấy, toàn thân anh rung lên niềm xúc động mãnh liệt muốn hòa đồng với tất cả những gì đang sống, đang hít thở, đang yêu đương trên cõi đất này.
Thế rồi một mũi tên vút tới xuyên qua, con chim đực choáng người rơi xuống trong khi con chim cái bỗng chợt bâng khuâng đau đớn chia lìa người yêu của mình có chiếc mào màu đồng đang lúc giao hoan, con chim cái trút ra một khúc ca nao lòng.
- Hỡi người đi săn! Vâlmki la to lên trong niềm đau đớn cùng cực. Vì có thể linh hồn của người sẽ không bao giờ được ca ngợi trong tất cả các cuộc sống tương lai nên người đã bắn vào đôi chim trong cái phút vô cùng cao quý của tình yêu đời chúng.
Với hai câu thơ trên tự nhiên trào ra từ quả tim đến đôi môi của mình, tâm hồn Vâlmki đang rộng mở cho một tình huynh đệ vĩnh cửu, anh thực sự đi đến biển đại dương thần tiên đầy thi tứ để trường ca Râmâyana bao la và huyền diệu có thể khai mào.
Lê Trọng Sâm dịch
(SH279/5-12)
-----------
1 - Là Trời, Đất và Dưới lòng đất.
2 - Râma, nhân vật chính của trường ca Râmâyana, lần hóa thân thứ bảy của thần Vishnu.
3 - Vishnu: một trong những vị thần chính của Ấn Độ giáo cùng với Brahmâ và Shiva.
4 - Bhagavad Gita: khúc ca của con người hạnh phúc. Là phần triết học của trường ca Ấn Độ Mahabharata.
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.