Vai trò “kép” của báo chí văn nghệ địa phương

09:39 28/07/2008
NGUYỄN KHẮC THẠCH(Tham luận đọc trong hội thảo)Cho đến đầu thế kỷ 21 này, chúng ta vẫn đang đứng trước nguy cơ tụt hậu về mặt kinh tế đã là điều đáng sợ nhưng cái đáng sợ hơn là nguy cơ vong bản về mặt văn hoá. Xu thế toàn cầu hoá đang xâm nhiễm và xâm thực vào đời sống chúng ta một cách ngọt ngào mà chua cay, dịu êm mà đẫm máu.

Nền văn minh tin học, văn minh kỷ trị có thể xoá nhoà mọi ranh giới giữa con người với con người, giữa con người với thế giới đồ vật. Khi con người đánh mất cái thuộc tính người, nghĩa là thuộc tính văn hoá thì xin lỗi, nó chỉ còn trần trụi là những con vượn hậu duệ mà thôi. Đó cũng sẽ là bi kịch cuối cùng của nhân loại!
Để tránh được bi kịch chung ấy và cũng như để giữ được nét riêng truyền thống phù hợp với tính thời đại, chúng ta chỉ còn một cách duy nhất là phải “Xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” như nghị quyết của Đảng đã đề ra. Yếu tố văn hoá chính là chiếc mỏ neo đã níu giữ con thuyền dân tộc trước sóng gió ngàn năm của đại dương Bắc thuộc và cả những dòng thác thập tự chinh từ phương Tây ào tới hòng “khai hoá” chúng ta thành nô dịch. Xét về mặt lịch sử, đặc trưng của văn hoá Việt vẫn là văn hoá làng. Mỗi vùng, mỗi miền đều kiến thủ một “nết đất” riêng. Nó luôn tồn tại trong sự biến thiên của lịch sử cũng như sự giao lưu của đời sống. Các tổ chức Hội Văn học Nghệ thuật, tạp chí văn nghệ địa phương là một hình thức mang tính tựu trung quy nạp những “nội hàm phụ cận” văn hoá làng ở cấp tỉnh. Như vậy, Văn nghệ địa phương hiện diện không chỉ vì sứ mệnh chính trị của nó mà sâu xa hơn còn vì nhu cầu duy trì và phát triển văn hoá. Khi mỗi tờ văn nghệ địa phương “trừu xuất” được đầy đủ những đặc trưng của vùng thì nó sẽ góp phần làm giàu, làm đa dạng bản sắc dân tộc. Văn hoá là cái hồn, là gương mặt của đất nước. Chúng ta không thể đem bóng đá hoặc siêu thị hay đem vũ khí ra khoe với thế giới. Văn hoá mà cái cốt lõi, cái trung tâm của nó là văn học nghệ thuật. Xét về phương diện này, ít nhất chúng ta cũng có một Truyện Kiều làm sáng giá tâm hồn người Việt trước lâu đài văn minh nhân loại.
Tờ văn nghệ địa phương nào cũng vậy, ngoài chức năng “ngôn luận”, nó còn phải làm nhiệm vụ phát hiện bồi dưỡng những cây bút trẻ, những tài năng tương lai cho đất nước, chưa có người tài thì đừng hy vọng gì những tác phẩm ngang tầm này nọ. Người có tài càng thêm bao nhiêu thì “biên độ bức xạ” của nó đối với nền văn hoá càng lớn bấy nhiêu. Việc đầu tư cho các tờ văn nghệ địa phương hiện nay nói chung là chưa có phần bồi dưỡng đào tạo đó. Xa xưa, một thương gia “buôn vua” như Lã bất Vi còn nuôi nổi 3000 kẻ sĩ để làm ra cuốn sách Lã Thị Xuân Thu lưu lại cho hậu thế. Kinh tế phát triển như thời nay, chẳng lẽ mỗi tỉnh chúng ta lại thua một Lã Bất Vi, không nuôi đủ một tờ báo văn nghệ với chi phí chưa bằng lương một giám đốc liên doanh?! Chúng ta đều biết rằng, những hành vi mang chiều kích nghệ thuật của loài vật cũng chỉ có thể có khi nó đã “dư thừa” một năng lượng sống. Con chim chỉ hót khi đã no diều, con công chỉ múa khi không phải kiếm ăn, con nai chỉ nhởn nhơ khi không bị săn đuổi. Cũng vậy, con người chỉ sáng tạo được khi họ không bị câu thúc bởi cơm áo. Đời sống của những người lao động sáng tạo nghệ thuật ở ta hiện nay đang bấp bênh, đang bị lôi cuốn vào guồng máy thị trường, nơi thực dụng đè lên mơ mộng. Những người làm báo văn nghệ ở các địa phương mức thu nhập thấp thua đồng nghiệp làm ở báo tỉnh Đảng bộ hoặc Đài Phát thanh Truyền hình tỉnh. Các Toà soạn phải tùng tiệm để lo lương, lo tiền in, lo nhuận bút và lo ra báo một cách lấy lệ. Thật khó mà làm cho tờ báo vượt ra khỏi hệ lụy “lực bất tòng tâm”. Nó không được tồn tại như một thực thể cấu thành nền văn hoá dân tộc.
Dù sao thì mỗi tờ báo chúng ta cũng đã được cấp kinh phí ở mức độ khác nhau, nhiều thì như cái thuyền để chèo, ít thì như cái phao để bơi. Điều quan trọng là chúng ta cần khẳng định sự có mặt của mình trong đời sống xã hội bằng những phẩm cách riêng. Vấn đề này, 6 tạp chí Bắc miền Trung hàng năm đều có giao lưu, trao đổi và nhận thấy rằng, nếu một tờ văn nghệ không có bản sắc hoặc sắc thái riêng thì nó chẳng khác gì một chủ thể sáng tạo không có cá tính, không có giọng điệu của chính mình. Bản sắc địa phương của mỗi tờ báo có được là điều tự nhiên, không cần cố gắng, nó phụ thuộc vào “bộ lọc” của Ban biên tập mà chủ yếu là “độ thẩm” của người chủ bút, tức Tổng biên tập. Do vậy, việc tuyển chọn đội ngũ những người làm báo văn nghệ này - một tờ báo có đặc thù riêng trong làng báo chí - Cũng dễ bị bất cập. Ở đây, họ là những nhà báo đã đành nhưng đồng thời cũng phải là những nhà văn. Chúng ta chưa có trường lớp nào đào tạo ra một người vừa là nhà báo vừa là nhà văn cả.
Sau khốn khó về kinh phí thì các tờ báo văn nghệ địa phương hiện nay đều rơi vào tình trạng khốn quẫn về nhân sự. Một thế hệ nối tiếp có năng khiếu, có khả năng kế cận thì họ lại đi tìm việc khác, làm báo khác, từ bỏ sự rẻ rúng, bèo bọt của môi sinh văn nghệ. Tạp chí Sông Hương trước đây có hàng chục nhà văn sáng giá trong Toà soạn nhưng rồi theo năm tháng, họ nghỉ dần, đi dần, nay nhìn lại không còn tên tuổi nào đáng kể nữa. Nhà văn có đẳng cấp chuyên môn chịu làm công việc quản lý lại càng hiếm hoi. Nó tạo ra một khoảng trống ảo tượng gây ngộ nhận cho những người cơ hội, háo danh, sính lập thân bằng con đường văn chương. Trên thực tế, đã có những người “điếc không sợ súng” nhưng được tổ chức “bảo kê”, họ vẫn nghiễm nhiên là “lãnh tụ” văn nghệ địa phương. Có địa phương còn tuỳ tiện điều động cán bộ tuyên huấn, cán bộ ngoại đạo “sang đoạt” các chức vụ “chăn dắt” văn nghệ. Người ta quan niệm đã là cán bộ tuyên huấn thì làm gì cũng được, kể cả làm chủ tịch Hội nhà báo, chủ tịch Hội Văn nghệ mà không cần là hội viên một hội nào cả. Không hội viên mà làm chủ tịch Hội vậy thì không đảng viên có làm bí thư Đảng được không? Chắc chắn là không! Chỉ có Văn nghệ mới bị coi thường đến vậy. Thời đất nước bước vào nền kinh tế tri thức, nghĩa là ở hạ tầng cơ sở cũng đã được tri thức hoá mà trên thượng tầng còn “tư duy” theo lối nông dân. Nếu cứ tiếp tục theo đà này thì một số tờ báo văn nghệ địa phương có nguy cơ hoặc bị chính trị hoá hoặc bị nông dân hoá. Rốt cục là những tờ báo như thế sẽ làm tổn thương thị hiếu người đọc, làm tầm thường hoá bản sắc văn hoá dân tộc.
Các địa phương vốn tỉnh lẻ, tù mù, ứng xử theo “lệ làng” nhưng trung ương thì phải sáng suốt, phải điều hành theo phép nước. Bộ văn hoá cùng các cơ quan hữu quan trung ương cần qui định cụ thể điều kiện và tiêu chuẩn nghề nghiệp đối với những người trực tiếp làm quản lý báo chí văn nghệ địa phương. Những qui định ấy không chỉ bằng các văn bản hành chính mà phải đưa vào bộ luật (luật báo chí). Mặt khác, chính nhà nước phải mở trường lớp đào tạo đội ngũ ấy.
Một tồn tại khác cũng cần phải nêu luôn là báo chí văn nghệ ở địa phương lâu nay chưa được hoạch định về mặt tổ chức, định vị về mặt thứ bậc. Có nơi xếp ngang với báo Đảng bộ tỉnh, có nơi lại thấp hơn một bậc. Có tổng biên tập ngang cấp giám đốc sở, có tổng biên tập ngang cấp trưởng phòng. Tạp chí Sông Hương chúng tôi có may mắn là từ đời tổng biên tập đầu tiên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rồi qua các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khắc Phê, Hồng Nhu, Nguyễn Quang Hà cho đến nay đều được đứng ngang hàng với cấp sở. Trong khi đó, bạn láng giềng là tạp chí Cửa Việt, thời nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường làm sếp thì báo loại 3, đến thời nhà văn Cao Hạnh thay thế thì nó tụt xuống hạng 4. Lại còn có một số báo chưa tách khỏi Hội, do chủ tịch kiêm tổng biên tập, muốn hay không thì họ cũng mang tiếng là “tham quyền cố vị” hoặc “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Trước khi nhà nước bổ nhiệm, có tổng biên tập phải qua bầu cử ở Đại hội văn nghệ địa phương, có tổng biên tập chỉ cử mà không bầu. Chưa hết, tuy chỉ trình lên xin ý kiến của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương và Bộ Văn hoá thông tin nhưng tổng biên tập địa phương thì phải kèm theo ba dấu đỏ sở tại, 2 tròn, 1 vuông của Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ, Sở Văn hoá và Hội Văn nghệ, còn báo ngành Trung ương thì chỉ có một dấu đỏ của cơ quan chủ quản mà thôi. Không riêng chuyện bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, ngay cả việc làm thẻ hành nghề cho nhà báo, các “cửa quyền” ở địa phương nhiều khi cũng gây không ít trở ngại, phiền hà cho cơ quan báo chí văn nghệ v.v...
Tất cả những “trật tự” đó, dường như đều được thao tác theo “cảm hứng” của các nhà chức trách chứ chưa theo một nguyên tắc nào, một cơ sở khoa học nào. Thiết nghĩ, đã đến lúc phải thống nhất lại, chấn chỉnh lại sự hỗn tắc đó trong hệ thống báo chí văn nghệ địa phương theo cơ chế “một cửa” như tinh thần nghị quyết 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 7 và Nghị quyết 38/ CP của chính phủ về việc cải cách hành chính.
Có thể nói, báo chí văn nghệ địa phương có một “vai trò kép” vừa là phương tiện chính trị vừa là mục đích văn hoá, vừa làm đặc sắc văn hoá các vùng, miền, vừa làm đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc. Bởi vậy, Đảng và chính quyền các địa phương cần đổi mới cách nhìn và đối xử với nó một cách công bằng hơn, độ lượng hơn.
N.K.T
(nguồn: TCSH số 155 - 01 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh.                                                                TCSH

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

  • ...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...

  • ... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta!                                 (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)

  • ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

  • NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.

  • TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà  mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.

  • LÊ MỸ Ý ghi                (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...

  • MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

  • THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

  • PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.

  • NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.

  • VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.

  • L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.

  • L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới

  • ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.

  • THU NGUYỆT                (Trích tham luận tại Đại hội VII  Hội Nhà văn Việt Nam)