Tương tri

16:08 05/10/2009
Y NGUYÊN     ... Những người muôn năm cũ         Hồn ở đâu bây giờ

Ảnh minh họa - ttol.com.vn



L
âu không rảnh đi hớt tóc; đầu tôi bờm lên, ngứa không chịu được. Tạm xếp công việc, leo lên chiếc xe tàng bò ra quán “Hair cut” (ấy, bây giờ đồ Tây, nhạc Tây, tiếng Tây - thậm chí cả... dân tây - theo luôn về tận làng; chẳng cần mất công đi lùng ngoài phố!) đầu chợ. Chú thợ trẻ - sau một lúc vất vả dùng lược truy lùng hộ tôi cái đường ngôi nguyên thuỷ - bắt đầu lôi ra một vật dài dài, vuông vuông, dây nhợ lòng thòng. Cái gì thế nhỉ? Nhìn qua, nó giống... bàn ủi mà không phải bàn ủi. Bàn ủi gì nhỏ xíu; lại toàn nhựa? Dòm trước mũi, trông hơi giống chiếc tông đơ bởi cũng có ngàm, có răng. Nhưng... tông đơ sao đằng sau trụi thui lủi; chẳng lò xo, chẳng ngoe càng? Nghe tôi thắc mắc, chú thợ toét miệng: Cái tông đơ í mà! Tông đơ gì quái vậy? Mắt chú thợ nhìn tôi - con mắt của người văn minh bỗng một hôm thấy lù lù xuất hiện trước mình một thằng cha thời tiền sử: Thì... cái tông đơ điện! Chú chưa thấy sao? Điện đóm gì! Dòm chán ngắt! Cái “tông” cũ mạ kền sáng choang! Càng ngoe đường bệ! Chưa hớt thấy đã ưa... Ôi trời, bộ chú mới trên... cung trăng xuống sao? Thời buổi này, ai còn xài ba thứ đồ bảo tàng kiếp trước? “Cơ giới hoá” mà. Cắm điện vào, ấn nút vài phát; vậy là roẹt roẹt, roẹt roẹt... xong ngay. Tiện lợi hết biết!

Mà thật! Chú thợ chẳng nói điêu. Sau vài phút “roẹt roẹt, cái tổ quạ trên đầu tôi đã không cánh mà bay. Thêm vài phút cạo mặt, ngoáy tai nhoáng nhoàng; chú thợ dựng ghế, vẩy mạnh khăn, đường bệ hô to: Người kế! Ấy là tín hiệu... đuổi khách. Tôi bước xuống ghế mà nẫu cả ruột. Cứ tưởng ít ra cũng được nửa tiếng lim dim mà hưởng cái thú cắt, cạo, ngoáy quen thuộc lâu nay. Đằng này... Tôi lẩm bẩm rủa thằng cha thợ “cà chớn”; rủa luôn cả cái tông đơ “hại điện” kia. Tội lỗi là do nơi mày; không sai trật!

Chẳng phải riêng tôi bực mình với cái tông đơ đáng ghét; ông bạn tôi còn cực đoan hơn. Mỗi lần đi “hair cut” về, ông lại chưởi vung: Đồ mắc dịch! Cắt tóc ngày xưa là dịp... sung sướng. Gì thì gì, cũng được nửa tiếng tạm gác chuyện đời ô trọc, ngửa người lim dim nghe tiếng kéo, tiếng “tông” tanh tách, êm êm. Giờ thì... đừng có mơ! Cái giống trời đánh kia cứ roèn roẹt, xè xè như máy gạo bên tai. Nghe mà sốt cả ruột! Tợp một ngụm nước, ông dõi mắt nhìn ra xa. Hình như ông đang cố kiếm một điều gì. Điều ấy - xem ra - không thuộc về thế giới của cái “giống trời đánh” mà ông vừa nghiến răng nghiến lợi lôi ra chưởi. Nó ở xa hơn. Xa như... chiều dài tâm tưởng; như các giấc mơ thỉnh thoảng vẫn vụt ra từ tiềm thức của mỗi kiếp người! Kiếm chán, bạn tôi thở ra, lẩm bẩm - như độc thoại với chính mình: Giá mà có một ông hớt tóc dạo...

Ừ nhỉ; tôi cũng nghĩ: giá mà có một ông hớt tóc dạo. Nhưng... Biết tìm đâu ra ông hớt tóc dạo? Chuyện ấy cũng xa vời như chuyện con người thời đại công nghiệp lại cứ mong chứng kiến cảnh... một ông nghè bằng thịt bằng xương đang bái tổ vinh qui! Ông nghè đã đi vào cổ tích. Ông hớt tóc dạo cũng đã từ lâu đi vào cổ tích. Cổ tích dễ thương; nhưng cổ tích không là thực tại (mà - biết đâu - nó dễ thương bởi nó không là thực tại?). Con người phải chấp nhận thực tại. Thực tại là chiếc tông đơ điện, là chú thợ trẻ thực dụng muốn “giải quyết” thật nhanh cho khách hàng để có nhiều tiền bỏ túi, là tấm biển “hair cut” kẻ sơn cẩn thận thay cho cái mẹt loằng ngoằng hai chữ “cúp tóc” viết vội bằng than. Thời gian không chờ đợi ai. Nó vun vút lao nhanh - chẳng đủ kiên gan với con người vốn dĩ trời sinh quá ư chậm lụt. Mới đó, tôi và bạn tôi đã thành người lớp cũ.Chẳng trách, mỗi lần gặp nhau cứ khoái tâm tình lỉ kỉ, chuyện hồi xưa... Khi con người cứ thích chuyện xưa thì rõ ràng con người đã bắt đầu xưa. Hèn chi chú thợ hớt tóc chẳng nhìn tôi như... người tiền sử! Chuyện bạn tôi ước mong người hớt tóc dạo làm tôi chợt nhớ đến một chuyện cũ (lại chuyện cũ!). Câu chuyện cũ này có liên quan tới cha tôi. Ngày còn sống, hầu như cha tôi chẳng bầu bạn với ai. Nói “hầu như không” nghĩa là chưa phải “tuyệt đối không”. Chính xác, cha tôi có quen một người. Bảo là bạn cũng được; là khách cũng được; mà bảo... người làm thuê cũng không sai trật! Cha tôi vốn thuộc “tuýp” người lập dị, khó tính. Ông sống lặng thầm, cô độc - không muốn gần ai mà cũng chẳng ai muốn gần. Ấy vậy nhưng, cái người - tạm cho là bạn - kia lại khiến ông quan tâm; lâu lâu không thấy ghé là nhắc. Còn người ấy? Hình như tính khí thất thường của cha tôi ông có biết; nhưng chẳng thèm để ý. Mười bữa nửa tháng, ông lại tồng tộc cái xe đạp trành lao bổ vào sân, cười ngoác đến mang tai. Người ấy là một ông thợ hớt tóc dạo - một mẫu người xa lạ với hiện tại nhưng vô cùng thân thuộc với ngày xưa. Đúng kiểu người bạn tôi vừa ước...


Ông thợ hớt ấy vào trạc tuổi cha - nghĩa là cũng thuộc hàng đại diện tiêu biểu cho những con người lớp cũ. Nom ông cao gầy, trắng trẻo; cái màu da hiếm thấy ở những người làm nghề lang bạt - dang nắng chạy rong từ sáng đến chiều! Chẳng hiểu sao ông chọn nghề này. Bộ dạng ông - nếu đóng áo khăn, kèm thêm cây thước bảng và vài cuốn tập học trò - hẳn sẽ là một ông giáo làng đích thị! Trưa tháng 5, đất trời đổ lửa, ông thợ ghé nhà xin nước uống (tiện thể hỏi thăm nhà xem ai có... nhu cầu!). Cha tôi vốn chẳng ưa gì đám hàng dạo, hàng rong. Biết có người vào, nhưng ông vẫn tỉnh bơ nằm đưa võng, ngâm nga:

Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu...

Chưa dứt lời, ông đã nghe tiếng người ngâm nối; giọng ngâm bi hùng, sang sáng âm vang:

... Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
Đem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt!

Cha tôi sững người! Cái võng đang đung đưa lập tức thắng gấp. Ông ngồi dậy. Ông nhìn chằm chằm vị khách không mời mà đến. Rồi - không nói năng, ông lẳng lặng vào nhà, bê ra hai chiếc ghế. Gốc mận trước sân lập tức biến thành... “trung tâm hair cut” cho bầy nhóc. Cả cha tôi cũng hớt; mặc dù - nếu tôi nhớ không lầm - ông vừa mới hớt tóc cách đâu chỉ mươi ngày...

Ông thợ hớt ấy cũng thật lạ kì. Cha tôi đã ít lời; ông còn ít lời hơn. Sau “cái thuở ban đầu” đáng ghi vào... biên niên sử ấy, cứ mươi bữa, nửa tháng hoặc một tháng ông lại ghé nhà. Có hớt ghé đã đành - mà không hớt cũng ghé. Vẻ như không phải ông ghé nhà tôi vì chuyện hớt tóc. Công bình mà nói, những lần ông ghé bất thường bao giờ cũng có một cái cớ. Nhưng - có trời mới biết những cái cớ ấy thật bao nhiêu phần trăm. Chỉ duy nhất một cái cớ mà ông không bao giờ dùng; ấy là... ghé thăm cha! Chẳng hiểu sao, ông cố tránh điều ấy. Mà không phải riêng ông; cha tôi cũng vậy. Mỗi lần ngong ngóng chờ ông thợ, cha tôi lại vò vò cái đầu cụt lủn, thốt bâng quơ: Đầu ngứa quá! Sao... không thấy lão thợ ghé lại cà???

Thường gốc mận trước sân, sau khi “tác nghiệp” xong, trở thành nơi đàm đạo của hai ông già. Một bình trà; hai cái cốc; bịch thuốc rê và... hết. Bàn ư? Thì một tấm gỗ mộc. Nó khiến cha tôi mất non buổi hè hụi đục, gõ, đóng đinh. Cái bàn ấy chỉ xuất hiện từ sau cuộc hội ngộ có một không hai kia. Vừa làm, cha tôi vừa lẩm bẩm - như muốn thanh minh: Trời nóng quá! Đóng bậy cái bàn bỏ ngồi hóng mát, ăn cơm... Mẹ tôi tủm tỉm cười. Vẻ bà như muốn nói: Biết rồi, khổ lắm... Bàn ấy đóng để làm gì mẹ tôi biết tỏng. Rõ ràng, ông khách kì dị kia làm cha vui. Cha vui thì mẹ cũng vui. Người mẹ phúc hậu, chân chất của tôi vốn chẳng sung sướng gì khi suốt ngày phải chứng kiến vẻ khó đăm đăm của một ông chồng lỡ vận thất thời; phải đem giấc mộng hải hồ nhốt sau bốn bức tường; quanh năm mang tâm trạng của kẻ sĩ thưa buồn, bất đắc chí!

Có điều lạ khiến tôi thắc mắc; tại sao cha không mời khách vào nhà? Nhà sẵn ghế sẵn bàn; lại đàng hoàng, trang trọng... Lạ hơn nữa, ông khách chẳng hề lấy làm buồn khi phải ngồi... gốc mận. Chính xác, hình như ông khoái trá khi được ngồi góc mận. Có lần, phải ngồi lâu lâu đợi gọi cha tôi từ hàng xóm, mẹ mở cửa, mời ông vào nhà. Ông nhất mực từ chối. Hỏi, ông bảo: ngoài này thơ hơn(?). Cái từ “thơ” cứ lặp đi, lặp lại trong những câu chuyện nhát gừng, không đầu không đũa giữa ông và cha tôi. Từ ấy nghĩa gì, chắc chỉ có hai người hiểu! (Nói thế thì hơi... tự ái cho tôi. Nhưng “Thơ” - theo cách hiểu của tôi - hoàn toàn khác. “Thơ” là... bài thơ; nghĩa là có chữ có câu, có vần có điệu. Còn bảo gốc mận thơ thì tôi thua đứt! Tôi đã khổ công đi hàng chục vòng quanh gốc mận xem có bài thơ nào được chép, khắc trên đó không. Uổng công! Xem ra, họ đang nói chuyện thơ gì khác kia, chứ thơ gì cái gốc mận? Chuyện gì dính dáng đến thơ  đều khiến họ đắc ý. Những lúc đắc ý, cha tôi như biến thành người khác. Ông nói vô tư. Ông cười sang sảng. Những nếp nhăn trên mặt, như có phép thần, tuần tự dãn ra! Còn ông khách? Ông đã “khác” ngay từ khi đong sập cái nắp thùng đồ nghề hớt tóc. Vẻ như nắp thùng chính là cánh cửa ngăn đôi thế giới của người thợ ngày ngày xuôi ngươc kiếm cơm với cái thế giới mà ông đang nhàn tản cùng với cha tôi. Và - cả với ông, cả với cha tôi - cái thế giới thứ hai kia mới cực kì quan trọng! Mỗi khi xong việc, ông đập nắp đánh “rầm” với một niềm khoái trá không cần dấu diếm. Nắp thùng đóng lại, phong thái ông lập tức thay đổi - trở nên đường bệ, ung dung. Có bữa, ông còn cao hứng ngâm nga:

Cực nhân gian chi phẩm giá - phong nguyệt tình hoài
Tối thế thượng chi phong lưu - giang hồ khí cốt...

Cha tôi tán thưởng, vỗ đùi đánh “bách”. Còn tôi, tôi cứ tròn cả mắt ra mà thán phục cái ông thợ hớt tóc hình như không - phải - trời - sinh - để - hớt - tóc. Hớt tóc sao lại thuộc nhiều, nhớ lắm - cả tuồng tích, cả thơ ca tự cổ chí kim? Hiếm hói đôi bận, ông và cha cãi nhau. Cãi để mà có cãi; chứ mới bắt đầu đã thấy cha tôi... thua chắc! Không chỉ rành thơ ca, tuồng tích; chuyện lạ về ông còn nhiều hơn. Chẳng hạn như: tay ông không những biết cầm tông đơ mà còn “cầm” được cả đàn, cả sáo. Chẳng biết tìm đâu, có hôm ông mang đến nhà tôi cây sáo trúc; hôm khác lại chiếc đàn kìm. Nhìn ông thổi sáo, chơi đàn, hẳn sẽ không ai còn đủ can đảm nghĩ đến việc kêu ông... hớt tóc! Ấy vậy; nhưng khi dừng thơ ca đàn sáo, nắp thùng bật mở; ông lại lập tức biến thành ông thợ hớt siêng năng, nhẫn nại, hiền lành...

Sau này, tôi tấp tểnh rước nghiệp văn chương chắc có sự can dự của con người kì lạ ấy một phần. Ngày ấy, không riêng cha, cả tôi cũng ngong ngóng chờ ông. Vắng ông lâu, tự nhiên tôi cũng thấy đầu mình ngưa ngứa...

Cái tông đơ của ông thợ hớt cũ lắm. Nước mạ chỗ còn chỗ tróc; thành ra như chó vá - nơi trắng bóng, nơi lại đen xì xì! Ấy vậy, nhưng đừng tưởng ông coi thường. Bao giờ xong việc ông cũng cẩn thận lau chùi, dùng bàn chải răng đánh sạch đám tóc con còn mắc nơi ngàm, nơi tay cầm, lò xo, hang hốc. Như chưa tin hẳn, ông còn đưa lên nghiêng ngó, nhấp nhấp, kê miệng thổi phù vài hơi trước khi trân trọng đặt vào cái bao da sờn cũ. Thùng dụng cụ của ông, tôi được phép sờ bất cứ thứ gì ngoại trừ... chiếc tông đơ! Thời ấy, tông đơ là hàng nhập từ Pháp; nghe đâu rất đắt. Gia sản của người thợ hớt - nếu không tính những thứ “phần mềm” râu ria như lược, kéo...; thì “phần cứng” sinh tử gói gọn chỉ gồm... con dao cạo (không phải thứ dao cạo “ngừa sida” hai trăm một lưỡi cạo rách cả mặt như bây giờ. Dao cạo “siêu hạng” của Đức, Pháp; có cán gập, lưỡi dài hàng 2 tấc; liếc bằng nịt da kêu xoèn xoẹt; cạo vào mát lạnh, êm ru!) và chiếc tông đơ. Nhưng dao cạo vẫn chưa đắt bằng tông đơ. Chiếc tông đơ là tài sản lớn, là “cần câu cơm” chủ lực, vật bất li thân; ông thợ quí nó hoàn toàn dễ hiểu. Cái khó hiểu ở đây chính là: thái độ quí hoá ấy hình như... vượt mức cho phép! Điều này, đặc biệt, không phù hợp với tính cách nhà - thông - thái - hớt - tóc - dạo của tôi. Bản năng trẻ con nhiều khi không thể lí giải tại sao; nhưng tôi cứ cảm thấy rằng: đã là ông thì không phải thế; mà đã là thế - tức thị không phải là ông! Cái người quí trọng quá mức chiếc tông đơ kia - tôi đoán chắc không phải là ông. Oái oăm thay, thực tại - đó vẫn là ông; và cái thực tại kia làm tôi cay đắng, khó chịu vô cùng...

Thực tình, cảm nhận trẻ con của tôi không hẳn sai. Mỗi lúc cầm chiếc tông đơ lên tay, người thợ ấy - tuy vẫn là ông; nhưng hình như không phải là ông. Ông đang biến thành người khác. Ông trở nên âm thầm, kín đáo. Đôi mắt buồn, u uẩn cứ nhìn mông nơi nào đó thật xa xăm. Cả khi đang hành nghề với chiếc tông đơ, điệu bộ ông cũng trang trọng khác thường. Ông hớt tóc mà như đang hành lễ. Một thứ lễ nghi không tốn điện thờ, không cần hương khói. Tiếng vọng âm thầm của lễ nghi ấy đang xuất phát từ Tâm, ánh lên từ mắt, hiển hiện từ từng bộ điệu, cử chỉ trang nghiêm. Tưởng chừng ông không nhìn thấy ai, không nghe thấy gì. Mà không phải chỉ không thấy, không nghe; hình như cả ông cũng không còn tồn tại trong thế giới thực tại! Những lúc ấy, tôi mon men lại gần thế nào cũng bị cha xua tay, trừng mắt. Cha tôn trọng những khoảnh khắc lạ lùng của con người lạ lùng ấy. Không bao giờ cha tò mò hỏi han, hay sờ mó chiếc tông đơ. Hình như cha kính nể luôn cả chiếc tông đơ - cái vật cũng bí ẩn, lạ lùng như lai lịch của người chủ nó! Không nói ra; nhưng giữa họ như có sự ngầm giao ước. Cha không hỏi - mà khách cũng không bao giờ hé răng về chuyện ấy. Chỉ duy nhất một lần vui vui, ông vuốt vuốt chiếc tông đơ, buột miệng với cha: Ngày nào chiếc “tông” này không còn nữa, tôi sẽ bỏ nghề.


Mấy năm sau, tình hình làm ăn của những người hớt tóc dạo ngày càng khó khăn. Quán hớt tóc mọc nườm nượp đầu làng, cuối xóm. Người ta đua nhau cạnh tranh - từ dao mới, “tông” mới - đến bảng hiệu, tranh ảnh, xà bông cạo mặt, nước hoa xịt đầu! Có anh chơi bạo, còn bỏ tiền tậu thêm cái máy đấm lưng, hầu các “Thượng Đế” thư giãn bằng môn tẩm quất sương sương - hay sang hơn thì “chơi” cái cassette, suốt ngày ỉ eo bên tai khách nhạc vàng nhạc tím. Người lớn rủ nhau ra quán. Khách hàng của đám hớt dạo họa chăng chỉ còn lũ trẻ con. Hớt cho trẻ con tiền chẳng được bao nhiêu. Thêm nỗi, chúng chẳng chịu ngồi yên. Chúng ngọ nguậy; chúng quay đầu; chúng khóc ré. Lơ mơ là chảy máu, đứt tai. Chỉ vì chiều khách; thực tình, chẳng anh thợ nào khoái hớt tóc cho trẻ con. Sôi cả ruột, bực cả mình!

Bóng những người hớt tóc dạo với tiếng rao “Tóc đê..ê...” vẳng qua làng ngày một thưa vắng. Cùng với tuổi thơ của tôi, họ cứ lùi dần, chìm dần vào quá khứ. Chỉ duy nhất ông thợ hớt của cha (và của tôi) là vẫn còn. Có điều - dạo này ông ghé thưa hơn; đôi khi vài ba tháng mới thấy ông lọc cọc chiếc xe chở đồ nghề vào sân. Chở để mà chở - xem ra ông chẳng còn tha thiết mấy với chuyện tóc tai. Bằng chứng, có hôm ông cũng say chuyện từ sáng đến chiều với cha, quên cả đi làm! Duy chỉ một điều, cái tông đơ thì ông vẫn quí như xưa. Cái “tông”, bây giờ, nếu đem bán giá “hàng lạc xon” chưa chắc đám thợ mới đã mua. Nhưng mỗi lần lôi ra cắt tóc cho cha hoặc cho tôi, vẻ ông vẫn trang trọng, tôn nghiêm như đang cầm một linh vật trên tay; không phải là chiếc “tông” xọc xạch, cũ mèm...

Cha tôi mất.

Tôi đi học xa; bận rộn giữa kì thi vào ngày cha tôi mất. Nhà không dám báo tin; sợ tôi bỏ học hành, thi cử giữa chừng. Lúc về, cha đã mả mồ yên. Việc tuần tự cùng nỗi đau tang tóc làm tôi quên khuấy; không hỏi han gì đến người bạn kì lạ của cha. Nhưng đến một chiều, khi đang đăm đăm nhìn bàn thờ cha nghi ngút khói hương, mẹ tôi chợt “à” lên như có điều gì sực nhớ. Bà lập cập vào buồng, mang ra cái gói. Gì vậy Mẹ? Mẹ không biết. Của người ta gửi... Gửi cho ai? Cho con. Ai gửi? Thì ông thợ hớt... Tôi suýt nhảy dựng. Ông thợ hớt? Ông ấy đến đây lúc nào? Sau khi cha con mất. Độ 5 hôm... Ông ấy có nói gì không? Không! Ông ấy chỉ lẳng lặng vào nhà, thắp hương, vái 3 vái, dặn đưa cái gói cho con rồi đi ngay. Hình như ông sắp đi xa... Đi xa? Đi đâu? Điều ấy chắc chỉ có con người bí ẩn kia mới biết! Tôi run run mở gói. Trong lớp giấy, trong lớp vải, trong chiếc bao da sờn rách, cũ mèm là... cái tông đơ! Lần đầu tiên tôi được cầm cái tông đơ ấy trên tay. Kì lạ; cái tông đơ ấm nóng như vừa có người cầm xong. Tưởng như chủ nhân vừa tự tay trao nó cho tôi; và ông đang ở đâu đó - rất gần...

... Tôi thảng thốt nhìn quanh. Dường như tôi nghe đâu đây có tiếng người sang sảng đọc thơ. Tôi còn nghe cả tiếng sáo, tiếng đàn kìm... Bất giác, hai tay tôi nâng chiếc tông đơ, kính cẩn tiến vào, đặt lên bàn thờ cha. Ngước nhìn tấm ảnh bán thân của cha trong ánh chiều chạng vạng, lung linh, tôi thấy - điều này bạn có tin không - cha tôi trong ảnh đang cười...

Tháng 7/2004
Y.N
(189/11-04)





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VIỆT HÀVọng đi vào núi. Tại sao phải đi vào núi thì Vọng mong manh biết, còn sẽ đi vào núi như thế nào thì anh không biết. Nắng của chiều ngần ngừ trên một đường mòn và đường mòn heo hút cỏ dại đến đây thì chia hai.

  • HÀ KHÁNH LINHGiáo sư tiến sĩ Hoàng Lập Xuân thường nói với các sinh viên của mình thuở còn ấu thơ bà tin những chuyện cổ tích là có thật, từ đó bà đã sống và hành động theo tinh thần cổ tích. Khi đã thành danh, bà thường ngẫm nghĩ đối chiếu mình với các nhân vật trong cổ tích. Nhiều người lấy làm ngạc nhiên khi thấy chuyện cổ tích đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của một con người như giáo sư tiến sĩ Hoàng Lập Xuân. Càng ngạc nhiên hơn, khi biết rằng những chuyện cổ tích bà được nghe kể khi còn nhỏ không phải do ông bà nội ngoại, không phải do cha mẹ...

  • HƯỚNG DƯƠNGTết đã gần đến rồi. Những ngày này mọi người chỉ nghĩ đến một việc là chơi gì trong ngày Tết? Trước đây, cuộc sống thiếu thốn thì Tết là dịp để ăn uống cho no say đầy đủ - Vậy mới gọi là ăn Tết. Còn giờ, mọi sự dinh dưỡng thừa mứa, đàn ông bụng phệ nhan nhản, đàn bà đi hút mỡ thường kỳ, bệnh béo phì của trẻ em gia tăng. Ăn uống là kẻ thù của con người. Vậy nên, Tết không còn là ăn Tết nữa mà là vui Tết, chơi tết.

  • PHẠM ĐÌNH TRỌNGChưa bao giờ Ngay có ý nghĩ rời Hà Nội đến sống ở vùng đất khác thế mà anh đã đột ngột đưa cái gia đình bé nhỏ không còn nguyên vẹn của anh đi vào thành phố phía Nam cách Hà Nội ngót hai ngàn cây số. Anh đi như chạy trốn để rồi càng ngày anh càng nhớ quay quắt nơi anh đã để lại cả một thời tuổi trẻ đẹp đẽ.

  • THU NGUYỆTTrắng và trắng. Muột thơm và tinh khiết. Mặt đất dường như đỏ và mịn hơn khi được trải mình ra đón nhận sự nương tựa dịu dàng của những cánh hoa sứ ấy. Tôi khẽ khàng nhặt một bông sứ nhỏ, không đưa lên mũi ngửi như thói thường mà trang trọng áp vào tai. Trong làn hương tràn ngập, tôi nghe vẳng tiếng chuông ngân đẫm mát. Ai đó ơi, hãy một lần thử xem, nhặt một bông sứ nhỏ sân chùa, nhè nhẹ áp vào tai, sẽ nghe thấy những âm thanh và làn hương kỳ diệu! Cái cảm giác lạ lùng mà tôi đoán chắc rằng ai đó sẽ bất ngờ thấy mình khác hẳn đi.

  • PHẠM THỊ ANH NGAVới tôi mạ không có công ơn mang nặng đẻ đau, nhưng mạ đã thực sự ban cho tôi sự sống: sau khi lần lượt sinh bốn người con gái đầu lòng, lần thứ năm chín tháng cưu mang và "vượt cạn mồ côi một mình" mạ đã sinh ra anh, người sau này sẽ là "một nửa" của đời tôi.

  • PHẠM THỊ XUÂNTừ ngày Hoạt được đề bạt lên phó giám đốc, Mùi bắt đầu tiến hành một cuộc cách mạng trong gia đình. Nhìn vào đâu, vào cái gì, Mùi cũng chưa thấy nó xứng đáng với địa vị mới của chồng. Ngôi nhà ba gian vừa xây cách đây không lâu, bây giờ nó đã trở nên lạc hậu trong mắt Mùi. Mùi nghĩ, giá như hồi ấy mà làm theo kiểu nhà hộp thì bây giờ có phải đã lên thêm được một tầng như một số người quanh đây không.

  • HƯƠNG LANTuấn nhìn đồng hồ, rồi lại đi lui, đi tới không biết là lần thứ bao nhiêu trong buổi sáng này trên hành lang của Tòa án nhân dân Thành phố. Vẫn còn 5 phút nữa mới đến giờ, nhưng Tuấn có cảm giác giận Hương, có lẽ cô ta không đến, cô ta muốn gây khó dễ cho mình... Tuấn thầm nghĩ và lòng anh hiện lên một chút đay nghiến với người phụ nữ đang còn là vợ anh trong vài tiếng đồng hồ nữa.

  • BÙI MINH QUỐCNgày hôm ấy là một ngày không có gì đặc biệt trong cuộc sống cực nhọc, buồn tẻ của giáo sư Lê Khương- một ông già ngót sáu mươi tuổi mà vẫn sống độc thân. Nhưng rồi có một sự đặc biệt đến với ông vào lúc gần nửa đêm. Sau khi rà sửa lại lần thứ ba mấy chục trang cuối tập bản thảo một công trình mới nhất của mình, giáo sư đặt lưng xuống giường ngủ thiếp đi. Và, như thường lệ, ông bắt đầu thấy chiêm bao.

  • DƯƠNG THÀNH VŨBuổi sớm maiSông thức dậyMột mìnhTrôi mải miết    (René Char)

  • ĐOÀN BÍCH HỒNGBà lão ngồi bất động nơi cây cầu giơ một khúc gỗ khẳng khiu đỡ lấy sàn nhà. Trong lúc liếc nhìn bóng mình lao chao trong cái màu xanh rêu đùng đục của dòng sông đang gắng gỏi vài mét nước cuối cùng trước khi nhập vào lòng biển, bà cố ghi nhận cái thời khắc quan trọng mà bà cảm thấy nó đang đến gần.

  • NHƯ BÌNH1. Đực và cái. Một đứa con trai đứng bên một đứa con gái là giống đực đặt bên giống cái. Còn nhỏ chúng là những đứa trẻ, không ngại ngùng bởi vấn đề giới tính. Trưởng thành, hai giống bên nhau tạo sức hút và nảy sinh cái gọi là tình yêu. Các cụ ta xưa rất hiểu quy luật giới tính này. Chả thế mà cứ nhốt hai giống vào một phòng là thành vợ chồng.Bố mẹ tôi cũng là một cặp như thế.

  • NGUYỄN VĂN ĐỆThuần ra bến thuyền vào lúc thuỷ triều đang lên. Lúc này là nửa đêm. Trăng hạ tuần trong như con cá mòi tháng bảy nhảy hất lên từ mặt biển treo mình giữa nền trời xanh ngát. Gió tây se lạnh, gió thổi từ đất liền ra giộng rừng phi lao reo lên cùng với tiếng vi vu, vi vút, gió thổi vào ngọn sóng làm hắt lên những tia sáng.

  • NGUYỄN THANH MỪNGĐã bát tuần, ông vẫn chưa nghĩ đến cái già. Đó là ông nói vậy, bô lô ba la trước bàn dân thiên hạ, trong đó tất nhiên không thiếu cả bạn bè, nhất là những người đáng tuổi con cháu nhưng được ông tôn vinh là thần tượng của quốc gia, thậm chí quốc tế nữa.

  • NHẤT LÂM          Truyện ngụ ngôn hiện đạiTrong đàn chó săn của ông Mỗ thì Fóc vào loại anh cả đỏ. Ngoài chân cao, mũi thính, mình dài, chạy như tên bắn... nói chung những gì cần cho một con chó săn đích thực thì Fóc có cả.

  • NGUYỄN TRƯỜNG                           Nơi hầm tối là nơi sáng nhất          (Thơ Dương Hương Ly)

  • TRẦN THUỲ MAINăm nay mùa đông lạnh hơn hẳn mọi năm. Gió cao nguyên cứ tràn qua, tràn qua từng đợt, những bông quỳ chấp chới vàng như sóng. Quỳnh bảo tôi: Gió ở đây một đi không trở lại, khác ở Huế. Gió từ sông Hương thổi lên là gió rất đa mang, thổi tà áo bay dùng dằng, như trong câu hát ngày xưa "Gió bay từ muôn phía...".

  • HẢI THITôi lớn lên ở một ngôi nhà nhỏ ven sông. Con sông nhỏ chảy qua một vùng quê hẻo lánh. Nhà tôi và nhà Khan đối diện nhau trên dòng trôi quê mùa ấy, chỉ có điều nhà tôi thì quay mặt ra sông, còn nhà Khan thì quay lưng ra sông, chính vì thế mà thuở nhỏ, mỗi lần tắm sông cười đùa ầm ỉ, tôi hay bị ba tôi rầy la nhiều hơn, vì ba tôi chỉ cần ngồi trên nhà đưa mắt là thấy ngay tôi đang trèo lên những bè lục bình để làm công chúa, còn ba Khan thì chỉ trông thấy Khan ném bùn đất vào cô công chúa kỳ khôi mỗi khi ông có việc phải ra đằng sau bếp.

  • NGUYỄN VIỆT HÀThư viện, nơi mà tôi sẽ tả kỹ, là một nơi tôi đã nhớ và bị nhớ rất lâu. Không phải ở đó tôi đã lần đầu yêu và lần đầu hôn. Tôi nhớ nó vì có một truyện kỳ dị, cái truyện đó rồi sẽ đẩy tôi suýt nữa trở thành một thứ bải hoải rẻ rách.

  • XUÂN ĐÀITôi làm đơn xin thôi việc, dù biết làm như vậy là phá vỡ hợp đồng đã ký kết với công ty. Tôi phải bồi hoàn. Là nhân viên kiểm toán, tôi không thể tiếp tục làm theo sự chỉ đạo của sếp, cộng tác với doanh nghiệp, đồng lõa với doanh nghiệp, sáng tác ra những con số ma để đối phó với thanh tra. Có tờ báo đã giễu cợt việc làm này là quân trộm cắp cộng tác với quân siêu trộm cắp, có lẽ nhà nước nên lập thêm công ty kiểm toán của kiểm toán.