VÕ QUÊ
Ảnh: internet
Tứ tuyệt ca Huế
1.
Cung nguyệt tơ tình se kết mối
Muốn bay lên hỏi thiệt trăng già
Tứ đại cảnh lắng sâu hồn diệu vợi
Mối cảm hoài rung động kiếp cầm ca…
2.
Nâng chén trà sen hương tri vị
Ai dạo bầu khuya khúc tri âm
Càng hiểu càng thương tình tri kỷ
Tri bỉ tri giao nghĩa sắt cầm!
3.
Ngân vọng cung âm thời cố xứ
Nhịp phách xuân thành quách hồi quang
Ngũ đối thượng em ca sang trọng quá
Thiêng liêng thay linh khí đất trời Nam!
4.
Lý Đoản xuân em hát dập dìu
Sắc đào lê vườn tình dào dạt
Khi Lữ Bố hí Điêu Thuyền dưới nguyệt
Phụng Nghi Đình hương cũ đượm nồng duyên
5.
Em nạm lên đời từng hạt đàn tranh
Thanh thoát muôn màu nhặt khoan cung bậc
Mười ngón tài hoa tiếng lòng sâu lắng nhất
Khúc hòa thanh đồng điệu tri âm...
6.
Chuông nhà thờ đổ hạt trong sương
Canh năm rồi câu ca còn luyến nhịp
Cung tỳ bà ngân dài ý nhạc
Mặt trời lên chầm chậm bởi câu ca
7.
Mây vờn bay trong bát ngát cao xanh
Giọng ca hiền mượt mà cung bậc
Điệu hành vân tuyệt vời nguyệt nhật
Nhạn ven trời tung cánh tìm ai
8.
Nguyệt cầm ray rứt cung âm
Nhị cầm réo rắt bổng trầm lời ca
Phách tình khoan nhặt gần xa
Thương con hồng nhạn hay là dáng em...
9.
Cuối mùa sen em vẫn chưa về
Khắc khoải điệu ca sầu cố xứ
Đêm hành vân mây vờn phố nhỏ
Tương tư rồi kim thủy ngừng lưu
10.
Giọt đàn bầu sâu lắng tương tư
Buồn sương phụ màn loan quạnh quẽ
Chút niềm riêng ai người san sẻ
Mối cảm hoài hạnh phúc mỏng manh...
11.
“Mộng canh tàn…” thương nữ Hành vân
Hèn chi mây vờn nguyệt lạnh
Khi sao mai hạt tình lấp lánh
Mộng canh tàn! Thực cũng tàn canh!
12.
Đêm thất tich mượt mà Tứ đại
Cầu Ô đàn quạ kêu sương
Nhị cầm ngân tơ tình đòi đoạn
Nến xuân tàn: huyết lệ sầu vương…
13.
“Cái tình chi…” da diết Nam bình
Ai oán hồn Quả phụ
Lá vàng thu rơi vào quá khứ
Giọng ca mềm tím mảnh sao băng
14.
Bướm lượn vườn mai vũ khúc xuân thì
Uyển chuyển lung linh muôn hồng ngàn tía
Đàn Lộng điệp hòa thanh lời ca nữ
Chén quỳnh thơm rạo rực hương tình
15.
Mái chèo trăng óng ánh ngấn vàng
Khuya ngọc lan ngát hương Phẩm tiết
Tính viên tình… nỉ non cung nguyệt
Phách trang đài ai gõ mạn thuyền lan…
16.
Trăng lặn rồi tiếng hát hãy còn ngân
Cung đàn nguyệt quyện hòa tơ nhị
Khúc nhạc lòng mọc vầng trăng tỏ
Rượu chưa tàn chờ một mặt trời dâng
17.
Mười ngón tài hoa đàn bầu réo rắt
Lời em ca tứ đại gọi vầng trăng
Ta về trong nhau mạch tình dào dạt
Níu ngàn sao bay xuống đời xanh
18.
Khúc Nam xuân thương chi mối chỉ hồng
Mà bà Nguyệt ông Tơ ưu ái
Mảnh trăng thề bên trời xanh vời vợi
Chợt dịu dàng trong dìu dặt lời ca
19.
Mười sáu dây dan díu chi tình
Mỗi cung bậc long lanh châu ngọc
Từ buồn vui khổ đau hạnh phúc…
Bức tranh đời tái hiện bởi thanh âm
20.
Khi sao mai mọc cuối chân trời
Tiếng ca em bay lên cùng ánh sáng
Nguồn rung cảm ngân vào vô hạn
Nên tình yêu vượt tới vô biên
(TCSH377/07-2020)
LÊ TẤN QUỲNH
PHẠM TẤN HẦU
NGÔ MINH
LÊ HUỲNH LÂM
TRẦN VÀNG SAO
LÊ THỊ MÂY
Nguyễn Thanh Văn sinh tại Huế, hiện sống ở Tp HCM. Anh đã xuất bản: Bài ca buồn gửi cố hương (2001), Lỡ hội trăng rằm (2004), Dự cảm (2011).
BẠCH DIỆP
NGUYỄN QUANG HÀ
HẢI BẰNG Tặng Nguyễn Khoa Điềm
LÊ THỊ MÂY
VÕ QUÊ
LGT: Ưng Bình Thúc Dạ Thị sinh ngày 9 tháng 3 năm 1877 tại Vĩ Dạ, Huế. Là chắt nội của vua Minh Mạng, hoạn lộ hanh thông, nhưng có lẽ vốn cũng là cháu nội nhà thơ Tuy Lý Vương nên ông đắm đuối trải lòng với thi ca.
LGT: Thơ, có thể không phải là câu chữ, có thể chỉ dành cho một số rất ít, đặc biệt điều đó càng được khẳng định trong thời đại ngày nay. Điều đáng nói đã được tác giả diễn ngôn và thi ca là những gì còn lại phía bên trong mỗi tâm hồn, như một sự khải huyền của thế giới khác trao gửi chúng ta. Trong chừng mực nào đó, Bạch Diệp đã tiếp nhận âm hưởng của thi ca từ bên ngoài rào cản duy lý. Đó là phần tinh túy của thơ chỉ dành riêng cho những thi sĩ không bị chi phối ở bất kỳ hoàn cảnh nào. Sông Hương giới thiệu ba bài thơ mới nhất của Bạch Diệp.
XUÂN HOÀNG
Năm 1813, Nguyễn Du trở lại Thăng Long, chuẩn bị cho chuyến đi sứ sang Trung Quốc, dưới triều Nguyễn. Bấy giờ Nguyễn Du đã ngoài 40 tuổi, đã chứng kiến sự thay đổi của ba triều đại phong kiến, sự đổ vỡ, tàn lụi của chính gia đình ông, một gia đình quan lại lớn, gắn bó với các triều đại ấy.
L.T.S: Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1942 ở Vỹ Dạ, Huế. Anh là một trong những sinh viên đầu tiên tham gia cách mạng ở Huế trong kháng chiến chống Mỹ.
HỒNG NHU
VIÊM TỊNH