Từ tiểu thuyết “bộ ba”… đến tính chất “tự truyện” của “Biết đâu địa ngục thiên đường”

09:09 28/01/2011
LTS: Tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường đã lập “hattrick” nhận liền ba giải thưởng trong năm 2010 (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Nguyễn Du, Tặng thưởng công trình Văn học nghệ thuật xuất sắc của Hội LHVHNT TT Huế). Để giải đáp phần nào thắc mắc từ phía bạn đọc về tính chất “tự truyện” cũng như chuyện bếp núc của cuốn tiểu thuyết “gia đình” này, Sông Hương xin giới thiệu bài viết của chính tác giả cầm tinh con Mèo - nhà văn Nguyễn Khắc Phê.

Nhà văn Nguyễn Quang Thân và tác giả


NGUYỄN KHẮC PHÊ



Trong bài trả lời báo Văn nghệ Trẻ hồi tháng 6/2010 về các vấn đề của tiểu thuyết trẻ, khi nhắc đến tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường, tôi đã viết: “Như đã ghi cuối cuốn sách, tôi đã viết cuốn tiểu thuyết này trong 20 năm (1986-2006). Tất nhiên là không phải ngồi viết suốt 20 năm ấy chỉ một cuốn sách này, nhưng mặt khác thì tôi đã “thai nghén” tác phẩm này trước đó rất lâu, nhưng cảm thấy mình chưa đủ sức, chưa “chín”, nên chưa thể đặt bút. Thoạt đầu, tôi đã định viết tác phẩm này theo kiểu bộ ba tiểu thuyết “Những con đường đau khổ” của A. Tônxtôi. Tôi đã viết tập I “Đàn chim lìa tổ”, nhưng qua bao nhiêu là trăn trở, suy tư, tôi bỏ, viết lại vì nghĩ rằng độc giả ngày nay chưa hẳn đã cần nghe nhà văn kể các sự tích đầy đủ theo kiểu tiểu thuyết “sử thi”; vả lại, viết dày ba tập, khoảng 2000 trang, ngay cả tác phẩm lớn của những văn hào, bây giờ liệu có mấy người dám bỏ thì giờ đọc lại, kể cả những thầy giáo dạy văn…”.

Tại cuộc “Toạ đàm” về cuốn tiểu thuyết này tại Huế do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Chi nhánh Công ty Văn hoá Phương Nam miền Trung tổ chức ngày 10/10/2010, một số bạn văn đã nhắc lại một số chương của tiểu thuyết này đã đăng trên Tạp chí Sông Hương năm 1987, khi đó cuốn sách còn mang tên “Ngày mẹ mong chờ”. Đó là những chương mở đầu của tiểu thuyết “bộ ba” như tôi đã nói ở trên. Sau khi nghe những nhận xét, bình phẩm của các bạn về cuốn BĐĐNTĐ tại cuộc “Toạ đàm…”, tôi đã có mấy lời như sau:

“…Trong một cuộc hội thảo như thế này, thường lời khen là nhiều, chỉ có lời chê rất thành thật của anh Tô Nhuận Vỹ là nên “khoanh vấn đề lại, ngắn hơn, để viết sâu hơn”... Tôi thấy điều đó rất đúng vì cuốn sách này từ khi viết xong đến lúc xuất bản, tôi đã phải mấy lần cân nhắc xem có thể rút gọn được chỗ nào không… Còn nếu cuốn sách đạt được đôi chút kết quả thì trước hết là nhờ hiện thực của đất nước vì tôi từng thú nhận mình là một nhà văn không có mấy tài năng. Hiện thực của đất nước Việt Nam vốn đầy chất tiểu thuyết. Không phải dân tộc nào cũng có số phận bi tráng với những trăn trở, thăng trầm như Việt Nam, do vị thế địa-chính trị trên thế giới và nhiều nguyên do khác. Thứ hai là hiện thực của gia đình - không biết có đáng gọi là may mắn không (vì hình như ở Việt Nam cũng nhiều gia đình như thế) đó là gia đình tôi có điều đặc biệt là anh em trong một nhà phân rã mỗi người một ngả rồi lại đoàn kết, gắn bó bên nhau. Giáo sư Vũ Ngọc Khánh, khi anh Nguyễn Khắc Viện mất, từng viết: “Một gia đình như gia đình cụ Nguyễn Khắc Niêm thật độc đáo. Nếu có dịp cả nhà cùng về sum họp, ta sẽ được gặp trong buổi hàn huyên này: Ông quan, người cán bộ dưới chế độ mới, nhà giáo, nhà văn… Ở đây có đủ mặt, người theo chủ nghĩa Cộng sản, người theo Phật giáo, người theo Công giáo, người theo Nho giáo… Không rõ có lần nào họ tranh luận với nhau về ý thức hệ hay không, chứ một gia đình như vậy quả là đặc biệt. Gần như tất cả các luồng văn hoá Đông Tây, cũ mới đều quy về gia đình này… Tôi biết họ rất tôn trọng nhau…” (Trích từ bài đăng trên báo Văn Nghệ ngày 24/5/1997). GS. Vũ Ngọc Khánh nhận xét tính chất “đặc biệt” của gia đình tôi, nhưng như tôi biết - và như thầy Trần Văn Hối đã nói - đất Nghệ Tĩnh và thật ra là dân tộc Việt Nam có nhiều gia đình “đặc biệt” như thế. (Cần nói thêm, có lẽ đó là “sản phẩm” của đặc điểm lịch sử dân tộc và sự giao thoa văn hoá trong tiến trình dựng nước và giữ nước của Việt Nam). Có phải đây cũng là một lý do giúp cho cuốn tiểu thuyết có được sự đồng cảm của không ít độc giả. “Có bột mới gột nên hồ” - nhờ được sống giữa một hiện thực đầy chất tiểu thuyết như thế, tôi mới viết nên BĐĐNTĐ.

Còn một điều nữa, cần nói thật là nhờ sự “Đổi Mới” của đất nước. Nếu không có công cuộc Đổi Mới năm 1986, tôi không thể viết được cuốn sách này. Chính là nguồn cảm hứng từ công cuộc Đổi Mới với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng quyền sáng tạo, được nói rõ sự thật của người cầm bút với trách nhiệm một công dân, một nhà văn, đã là một động lực thôi thúc tôi viết nên BĐĐNTĐ.

Nói về nhược điểm, như đã nói ở trên, một số người không nỡ chê, nhưng tôi biết cuốn sách cũng còn nhiều nhược điểm, tựu trung đều vì “lực bất tòng tâm”. Quả thật, với một cuốn tiểu thuyết như thế này, bao gồm nhiều nhân vật trí thức như thế, thú thật tôi chưa đủ tầm để viết một cách thấu đáo. Ví như có bạn đã trách tôi thể hiện nhân vật cụ Huy chưa sâu sắc. Mặc dù đó là hình ảnh của thân phụ mình, nhưng đúng là tôi chưa thể hiện được hết tâm trạng, sự giằng xé của một nhà khoa bảng trong những thời đoạn rất đặc biệt của lịch sử Việt Nam. Hoặc như hai anh em Tâm và Thanh đối chọi với nhau như thế, sau hai mươi năm gặp lại nhau, vẫn chưa “được” thật sự “đụng đầu”, đối thoại với nhau cho hết nhẽ… Tất cả đều do “lực bất tòng tâm”, nhưng như anh Tô Nhuận Vỹ nhận xét, mình không thể ôm hết, phải chọn lựa; và như trên đã nói, từ một phác thảo tiểu thuyết “bộ ba” đến BĐĐNTĐ, tác giả đã phải tự lược bớt nhiều thứ. Một số nhược điểm chưa làm bạn đọc thoả mãn, cũng có thể bắt nguồn từ đây.

Đi sâu hơn một chút vào “bếp núc” của nhà văn, khi chuẩn bị đưa bản thảo cho NXB, tôi đã thử lược bớt một số đoạn để cuốn sách đỡ dày, nặng và cũng là cách đẩy “tốc độ” chuyện lên như lời góp ý của một bạn văn và nhu cầu của không ít bạn đọc hiện nay. “Công đoạn” này đã làm cho bản thảo bớt được hơn một vạn từ (chữ), nhưng tôi biết có ý kiến muốn tác giả “mạnh tay” hơn nữa. Tôi cũng nghĩ, nếu nghiêm khắc hơn nữa, cũng còn có câu, có đoạn có thể lược bớt. Tuy vậy, xin được giãi bày một cách nghĩ, có thể là một quan niệm về tiểu thuyết: Tôi nghĩ tiểu thuyết không chỉ là việc kể một câu chuyện. Nếu chỉ để kể một câu chuyện thì ta có thể bỏ cách quãng nhiều thời đoạn, nhiều trang, khi không có sự kiện quan trọng; nhưng tiểu thuyết còn phải dựng nên một thế giới nghệ thuật - thế giới hiện thực, thế giới tâm hồn, cả hồn cốt một vùng quê… Ví như ở trang 295 trong BĐĐNTĐ, đoạn tả ông Chắt Hoè đến nhà cụ Huy giữa ngày lụt bàn chuyện mượn đò đi chặt củi, nếu để kể câu chuyện thì chỉ cần tả ông lội từ ngoài cổng vào rồi bước lên thềm thưa chuyện với bà cụ Huy (trang 296); nhưng tôi đã “dài dòng” tả thêm bữa ăn sáng của nhà cụ Huy lúc đó với món khoai lang khô hầm với đậu đỏ; hơn thế, còn “tỉ mẩn” nói rõ: nhân hồi đêm nấu cháo cá muộn, nên bà cụ Huy bảo Hảo hầm luôn nồi khoai khô; rồi tả bữa ăn đạm bạc ấy vẫn được chia mâm trên, mâm dưới cho đàn ông, đàn bà… Thiết nghĩ, cái đoạn “dông dài” này sẽ giúp bạn đọc hình dung rõ hơn hồn cốt một vùng quê - từ hương vị một món ăn dân dã, đến lối sống cần kiệm mà vẫn giữ nề nếp gia phong… Kể lể như vậy để bạn đọc thông cảm hơn với những trăn trở, có thể nói là vất vả của nhà văn trong quá trình viết, tuy rằng tất cả chưa thể làm thoả mãn bạn đọc…”.  

Nhân nói đến chuyện “bếp núc” trong nghề viết, xin kể lại việc chọn nhan đề tiểu thuyết. Khi cuốn sách sắp đưa in, NXB có nói với tôi có thể tìm một nhan đề khác không, vì cái tên BĐĐNTĐ tuy rất hay, rất trúng, nhưng dễ gây “sốc” và hiểu lầm. Tôi đã thử nêu ra cái tên ban đầu (Ngày mẹ mong chờ) nhưng rồi ai cũng thấy cái tên này “hiền lành” quá và cũng hơi… cải lương. Vả lại, có chi mà e ngại. Đây là một câu trong truyện Kiều, không chỉ đúng với rất nhiều số phận trong tiểu thuyết mà đó là câu hỏi muôn đời của nhân loại. Đất nước Đổi Mới đã hơn hai chục năm, lối suy diễn và cách nghĩ ấu trĩ trong văn nghệ đã là “chuyện xưa” rồi. Nhắc chuyện này cũng vì chính cái tên BĐĐNTĐ đã giúp tôi “tổ chức”, xây dựng lại từ một tiểu thuyết “bộ ba” trở thành cuốn sách như bạn đã đọc. Chính trong thời gian suy ngẫm viết lại cuốn tiểu thuyết, vào lúc tôi mở những trang bản thảo cũ, bắt gặp lời người mẹ đau đớn thốt lên khi cậu con trai cả bỏ nhà đi tu: “Con ơi! Biết đâu địa ngục thiên đường là đâu!”, thì gần như là một “ánh chớp” đối với người làm thơ khi chợt “tóm” được một cái “tứ” thú vị, tôi thấy đây sẽ là “sợi chỉ đỏ” xâu chuỗi các nhân vật và tình tiết, không chỉ giúp tác giả tránh sa lầy hay chạy theo các sự kiện cho đến “ngày mẹ mong chờ” mà còn nâng tầm tư tưởng của tác phẩm.

Về yếu tố “tự truyện” của tiểu thuyết, ngay khi sách mới ra, tôi cũng đã bị không ít người “chất vấn” điều này điều nọ, trong đó nhiều người hỏi “tại sao viết về gia đình mình mà không có ông Nguyễn Khắc Viện”; cũng có người hỏi “chị Thảo - “nguyên mẫu” nhân vật Thanh, chỉ có hai cậu con trai, sao truyện lại có cô Linh?” Đại thể như thế. Cũng có người “tò mò” rằng “chuyện Hưng ngủ cùng lán công trường với cô Lan giữa chốn đồng không mông quạnh mà không mần chi cả, chắc là tác giả bịa chứ gì?” Cái chi tiết này thì tôi có thể trả lời ngay: - “Chuyện đó là thật 100%!” - “Thế thì ông đúng là thánh thật!” Ông bạn “tò mò” ở đầu đường dây tại TP. Hồ Chí Minh nói vậy và cười toá lên.

Có bạn chê là tôi hơi quá “thật thà”, cũng có người như nhà văn Hoàng Ngọc Hà lại nói, chị thường không bỏ sót những gì tôi viết vì tin tôi luôn nói thật; nhà văn Hồng Nhu cũng thích cách tôi thể hiện nhân vật Hưng, không “bịa”, không đẩy nhân vật “quá lên”… Tôi hiểu cách cảm thụ văn chương chẳng ai giống ai, cũng biết lối viết của mình còn nhiều nhược điểm, nhưng… Trời sinh ra thế rồi, đến tuổi “cổ lai hy rồi”, muốn “cách tân” cũng chẳng thể theo kịp các tài năng trẻ.

Cũng chính vì những trang viết “y như thật” trong BĐĐNTĐ, nên những bạn đọc từng quen biết gia đình tôi mới nảy ra những “chất vấn” trên kia, mặc dù họ cũng hiểu đã là tiểu thuyết thì nhất thiết có sự “hư cấu”. Một số bạn phát biểu trong cuộc “Toạ đàm…” đã phần nào trả lời giúp tôi những “chất vấn” đó. Tôi rất tán thành ý kiến của anh Bùi Ngọc Quỳnh là muốn được độc giả đọc BĐĐNTĐ như là một tiểu thuyết, chứ đừng “đối chiếu” với việc này, người kia ở ngoài đời. Nhà thơ Vĩnh Nguyên cũng đã “khen” tôi “khôn ngoan” vì đã không “ôm” ông Viện và cả một gia đình đông đúc vào tiểu thuyết. Mẹ tôi có đến 9 người con, mà trong BĐĐNTĐ chỉ nói đến 4 người. Nếu bạn đã đọc cuốn “Cụ Hoàng Niêm đất Hương Sơn” (NXB Thuận Hoá, 2007) thì còn nhận ra nhiều yếu tố trong gia đình tôi đã không “có mặt” trong BĐĐNTĐ (dù là dưới hình thức “tiểu thuyết hoá”), ngay cả ở hai nhân vật chính là Cụ Huy và bà Huy. Bố tôi lập gia đình sớm, người vợ đầu là chị của một vị tiến sĩ ở làng bên cạnh, bà mất sau khi sinh 6 người con (trong đó có bác sĩ Nguyễn Khắc Viện); mẹ tôi là kế mẫu… Nói qua như thế để các bạn hiểu, nếu “ôm” tất cả các nhân vật đó vào sách với biết bao nhiêu là mối quan hệ và tâm lý nẩy sinh, tuy cũng rất “tiểu thuyết” và truyện có thể phong phú thêm, nhưng tác phẩm sẽ rất dài và chủ đề không tập trung. Cũng vì vậy, tôi không đưa hình ảnh anh Nguyễn Khắc Viện vào BĐĐNTĐ, mặc dù rất… tiếc. Còn một lý do nữa, cuộc đời và sự nghiệp của anh Viện sách báo đã nói đến rất nhiều, viết thành nhân vật tiểu thuyết dù sao cũng phải hư cấu, đó là điều không đơn giản, nhất là anh Viện có quan hệ với nhiều nhân vật lịch sử - văn hoá nổi tiếng trong nước và quốc tế, tác giả “bịa” không khéo thì coi chừng… Đó là chưa nói đến với môi trường hoạt động, tầm văn hoá và tư tưởng của anh Viện, một tác giả ít học như tôi, có lẽ chưa đủ khả năng dựng nên một nhân vật tiểu thuyết thành công. Rút cục lại thì vẫn là “lực bất tòng tâm”. Chỉ với số lượng nhân vật “rút gọn” lấy nguyên mẫu từ người thân trong gia đình và bà con ở quê mà bạn đọc đã “gặp” trong BĐĐNTĐ, tôi cũng phải cân nhắc, suy tính về nhiều mặt mới tạm được mọi người chấp nhận, không bị kiện tụng gì!

Hẳn sẽ có bạn sẽ bảo: Thế thì việc chi anh không “bịa” hoàn toàn cho khoẻ mà lại viết theo kiểu “ít nhiều có yếu tố tự truyện” cho rắc rối? Xin thưa: Như trên tôi đã nói, tôi có may mắn sống trong một gia đình đầy chất tiểu thuyết, dại chi mình không “lợi dụng”; mà hình như với rất nhiều nhà văn, nếu có điều kiện dựa vào “nguyên mẫu” thì trang viết sinh động và chân thực hơn…

Trường An-Huế, tháng 11/2010
N.K.P
(264/2-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.

  • MAI VĂN HOAN     Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.

  • HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).

  • ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.

  • HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.

  • LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.

  • HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.

  • LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.

  • VĂN CẦM HẢI       (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".

  • TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.

  • NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.

  • VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.

  • NGUYỄN VĂN HOA           Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...

  • KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.

  • HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.