Từ tiểu thuyết “bộ ba”… đến tính chất “tự truyện” của “Biết đâu địa ngục thiên đường”

09:09 28/01/2011
LTS: Tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường đã lập “hattrick” nhận liền ba giải thưởng trong năm 2010 (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Nguyễn Du, Tặng thưởng công trình Văn học nghệ thuật xuất sắc của Hội LHVHNT TT Huế). Để giải đáp phần nào thắc mắc từ phía bạn đọc về tính chất “tự truyện” cũng như chuyện bếp núc của cuốn tiểu thuyết “gia đình” này, Sông Hương xin giới thiệu bài viết của chính tác giả cầm tinh con Mèo - nhà văn Nguyễn Khắc Phê.

Nhà văn Nguyễn Quang Thân và tác giả


NGUYỄN KHẮC PHÊ



Trong bài trả lời báo Văn nghệ Trẻ hồi tháng 6/2010 về các vấn đề của tiểu thuyết trẻ, khi nhắc đến tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường, tôi đã viết: “Như đã ghi cuối cuốn sách, tôi đã viết cuốn tiểu thuyết này trong 20 năm (1986-2006). Tất nhiên là không phải ngồi viết suốt 20 năm ấy chỉ một cuốn sách này, nhưng mặt khác thì tôi đã “thai nghén” tác phẩm này trước đó rất lâu, nhưng cảm thấy mình chưa đủ sức, chưa “chín”, nên chưa thể đặt bút. Thoạt đầu, tôi đã định viết tác phẩm này theo kiểu bộ ba tiểu thuyết “Những con đường đau khổ” của A. Tônxtôi. Tôi đã viết tập I “Đàn chim lìa tổ”, nhưng qua bao nhiêu là trăn trở, suy tư, tôi bỏ, viết lại vì nghĩ rằng độc giả ngày nay chưa hẳn đã cần nghe nhà văn kể các sự tích đầy đủ theo kiểu tiểu thuyết “sử thi”; vả lại, viết dày ba tập, khoảng 2000 trang, ngay cả tác phẩm lớn của những văn hào, bây giờ liệu có mấy người dám bỏ thì giờ đọc lại, kể cả những thầy giáo dạy văn…”.

Tại cuộc “Toạ đàm” về cuốn tiểu thuyết này tại Huế do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Chi nhánh Công ty Văn hoá Phương Nam miền Trung tổ chức ngày 10/10/2010, một số bạn văn đã nhắc lại một số chương của tiểu thuyết này đã đăng trên Tạp chí Sông Hương năm 1987, khi đó cuốn sách còn mang tên “Ngày mẹ mong chờ”. Đó là những chương mở đầu của tiểu thuyết “bộ ba” như tôi đã nói ở trên. Sau khi nghe những nhận xét, bình phẩm của các bạn về cuốn BĐĐNTĐ tại cuộc “Toạ đàm…”, tôi đã có mấy lời như sau:

“…Trong một cuộc hội thảo như thế này, thường lời khen là nhiều, chỉ có lời chê rất thành thật của anh Tô Nhuận Vỹ là nên “khoanh vấn đề lại, ngắn hơn, để viết sâu hơn”... Tôi thấy điều đó rất đúng vì cuốn sách này từ khi viết xong đến lúc xuất bản, tôi đã phải mấy lần cân nhắc xem có thể rút gọn được chỗ nào không… Còn nếu cuốn sách đạt được đôi chút kết quả thì trước hết là nhờ hiện thực của đất nước vì tôi từng thú nhận mình là một nhà văn không có mấy tài năng. Hiện thực của đất nước Việt Nam vốn đầy chất tiểu thuyết. Không phải dân tộc nào cũng có số phận bi tráng với những trăn trở, thăng trầm như Việt Nam, do vị thế địa-chính trị trên thế giới và nhiều nguyên do khác. Thứ hai là hiện thực của gia đình - không biết có đáng gọi là may mắn không (vì hình như ở Việt Nam cũng nhiều gia đình như thế) đó là gia đình tôi có điều đặc biệt là anh em trong một nhà phân rã mỗi người một ngả rồi lại đoàn kết, gắn bó bên nhau. Giáo sư Vũ Ngọc Khánh, khi anh Nguyễn Khắc Viện mất, từng viết: “Một gia đình như gia đình cụ Nguyễn Khắc Niêm thật độc đáo. Nếu có dịp cả nhà cùng về sum họp, ta sẽ được gặp trong buổi hàn huyên này: Ông quan, người cán bộ dưới chế độ mới, nhà giáo, nhà văn… Ở đây có đủ mặt, người theo chủ nghĩa Cộng sản, người theo Phật giáo, người theo Công giáo, người theo Nho giáo… Không rõ có lần nào họ tranh luận với nhau về ý thức hệ hay không, chứ một gia đình như vậy quả là đặc biệt. Gần như tất cả các luồng văn hoá Đông Tây, cũ mới đều quy về gia đình này… Tôi biết họ rất tôn trọng nhau…” (Trích từ bài đăng trên báo Văn Nghệ ngày 24/5/1997). GS. Vũ Ngọc Khánh nhận xét tính chất “đặc biệt” của gia đình tôi, nhưng như tôi biết - và như thầy Trần Văn Hối đã nói - đất Nghệ Tĩnh và thật ra là dân tộc Việt Nam có nhiều gia đình “đặc biệt” như thế. (Cần nói thêm, có lẽ đó là “sản phẩm” của đặc điểm lịch sử dân tộc và sự giao thoa văn hoá trong tiến trình dựng nước và giữ nước của Việt Nam). Có phải đây cũng là một lý do giúp cho cuốn tiểu thuyết có được sự đồng cảm của không ít độc giả. “Có bột mới gột nên hồ” - nhờ được sống giữa một hiện thực đầy chất tiểu thuyết như thế, tôi mới viết nên BĐĐNTĐ.

Còn một điều nữa, cần nói thật là nhờ sự “Đổi Mới” của đất nước. Nếu không có công cuộc Đổi Mới năm 1986, tôi không thể viết được cuốn sách này. Chính là nguồn cảm hứng từ công cuộc Đổi Mới với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng quyền sáng tạo, được nói rõ sự thật của người cầm bút với trách nhiệm một công dân, một nhà văn, đã là một động lực thôi thúc tôi viết nên BĐĐNTĐ.

Nói về nhược điểm, như đã nói ở trên, một số người không nỡ chê, nhưng tôi biết cuốn sách cũng còn nhiều nhược điểm, tựu trung đều vì “lực bất tòng tâm”. Quả thật, với một cuốn tiểu thuyết như thế này, bao gồm nhiều nhân vật trí thức như thế, thú thật tôi chưa đủ tầm để viết một cách thấu đáo. Ví như có bạn đã trách tôi thể hiện nhân vật cụ Huy chưa sâu sắc. Mặc dù đó là hình ảnh của thân phụ mình, nhưng đúng là tôi chưa thể hiện được hết tâm trạng, sự giằng xé của một nhà khoa bảng trong những thời đoạn rất đặc biệt của lịch sử Việt Nam. Hoặc như hai anh em Tâm và Thanh đối chọi với nhau như thế, sau hai mươi năm gặp lại nhau, vẫn chưa “được” thật sự “đụng đầu”, đối thoại với nhau cho hết nhẽ… Tất cả đều do “lực bất tòng tâm”, nhưng như anh Tô Nhuận Vỹ nhận xét, mình không thể ôm hết, phải chọn lựa; và như trên đã nói, từ một phác thảo tiểu thuyết “bộ ba” đến BĐĐNTĐ, tác giả đã phải tự lược bớt nhiều thứ. Một số nhược điểm chưa làm bạn đọc thoả mãn, cũng có thể bắt nguồn từ đây.

Đi sâu hơn một chút vào “bếp núc” của nhà văn, khi chuẩn bị đưa bản thảo cho NXB, tôi đã thử lược bớt một số đoạn để cuốn sách đỡ dày, nặng và cũng là cách đẩy “tốc độ” chuyện lên như lời góp ý của một bạn văn và nhu cầu của không ít bạn đọc hiện nay. “Công đoạn” này đã làm cho bản thảo bớt được hơn một vạn từ (chữ), nhưng tôi biết có ý kiến muốn tác giả “mạnh tay” hơn nữa. Tôi cũng nghĩ, nếu nghiêm khắc hơn nữa, cũng còn có câu, có đoạn có thể lược bớt. Tuy vậy, xin được giãi bày một cách nghĩ, có thể là một quan niệm về tiểu thuyết: Tôi nghĩ tiểu thuyết không chỉ là việc kể một câu chuyện. Nếu chỉ để kể một câu chuyện thì ta có thể bỏ cách quãng nhiều thời đoạn, nhiều trang, khi không có sự kiện quan trọng; nhưng tiểu thuyết còn phải dựng nên một thế giới nghệ thuật - thế giới hiện thực, thế giới tâm hồn, cả hồn cốt một vùng quê… Ví như ở trang 295 trong BĐĐNTĐ, đoạn tả ông Chắt Hoè đến nhà cụ Huy giữa ngày lụt bàn chuyện mượn đò đi chặt củi, nếu để kể câu chuyện thì chỉ cần tả ông lội từ ngoài cổng vào rồi bước lên thềm thưa chuyện với bà cụ Huy (trang 296); nhưng tôi đã “dài dòng” tả thêm bữa ăn sáng của nhà cụ Huy lúc đó với món khoai lang khô hầm với đậu đỏ; hơn thế, còn “tỉ mẩn” nói rõ: nhân hồi đêm nấu cháo cá muộn, nên bà cụ Huy bảo Hảo hầm luôn nồi khoai khô; rồi tả bữa ăn đạm bạc ấy vẫn được chia mâm trên, mâm dưới cho đàn ông, đàn bà… Thiết nghĩ, cái đoạn “dông dài” này sẽ giúp bạn đọc hình dung rõ hơn hồn cốt một vùng quê - từ hương vị một món ăn dân dã, đến lối sống cần kiệm mà vẫn giữ nề nếp gia phong… Kể lể như vậy để bạn đọc thông cảm hơn với những trăn trở, có thể nói là vất vả của nhà văn trong quá trình viết, tuy rằng tất cả chưa thể làm thoả mãn bạn đọc…”.  

Nhân nói đến chuyện “bếp núc” trong nghề viết, xin kể lại việc chọn nhan đề tiểu thuyết. Khi cuốn sách sắp đưa in, NXB có nói với tôi có thể tìm một nhan đề khác không, vì cái tên BĐĐNTĐ tuy rất hay, rất trúng, nhưng dễ gây “sốc” và hiểu lầm. Tôi đã thử nêu ra cái tên ban đầu (Ngày mẹ mong chờ) nhưng rồi ai cũng thấy cái tên này “hiền lành” quá và cũng hơi… cải lương. Vả lại, có chi mà e ngại. Đây là một câu trong truyện Kiều, không chỉ đúng với rất nhiều số phận trong tiểu thuyết mà đó là câu hỏi muôn đời của nhân loại. Đất nước Đổi Mới đã hơn hai chục năm, lối suy diễn và cách nghĩ ấu trĩ trong văn nghệ đã là “chuyện xưa” rồi. Nhắc chuyện này cũng vì chính cái tên BĐĐNTĐ đã giúp tôi “tổ chức”, xây dựng lại từ một tiểu thuyết “bộ ba” trở thành cuốn sách như bạn đã đọc. Chính trong thời gian suy ngẫm viết lại cuốn tiểu thuyết, vào lúc tôi mở những trang bản thảo cũ, bắt gặp lời người mẹ đau đớn thốt lên khi cậu con trai cả bỏ nhà đi tu: “Con ơi! Biết đâu địa ngục thiên đường là đâu!”, thì gần như là một “ánh chớp” đối với người làm thơ khi chợt “tóm” được một cái “tứ” thú vị, tôi thấy đây sẽ là “sợi chỉ đỏ” xâu chuỗi các nhân vật và tình tiết, không chỉ giúp tác giả tránh sa lầy hay chạy theo các sự kiện cho đến “ngày mẹ mong chờ” mà còn nâng tầm tư tưởng của tác phẩm.

Về yếu tố “tự truyện” của tiểu thuyết, ngay khi sách mới ra, tôi cũng đã bị không ít người “chất vấn” điều này điều nọ, trong đó nhiều người hỏi “tại sao viết về gia đình mình mà không có ông Nguyễn Khắc Viện”; cũng có người hỏi “chị Thảo - “nguyên mẫu” nhân vật Thanh, chỉ có hai cậu con trai, sao truyện lại có cô Linh?” Đại thể như thế. Cũng có người “tò mò” rằng “chuyện Hưng ngủ cùng lán công trường với cô Lan giữa chốn đồng không mông quạnh mà không mần chi cả, chắc là tác giả bịa chứ gì?” Cái chi tiết này thì tôi có thể trả lời ngay: - “Chuyện đó là thật 100%!” - “Thế thì ông đúng là thánh thật!” Ông bạn “tò mò” ở đầu đường dây tại TP. Hồ Chí Minh nói vậy và cười toá lên.

Có bạn chê là tôi hơi quá “thật thà”, cũng có người như nhà văn Hoàng Ngọc Hà lại nói, chị thường không bỏ sót những gì tôi viết vì tin tôi luôn nói thật; nhà văn Hồng Nhu cũng thích cách tôi thể hiện nhân vật Hưng, không “bịa”, không đẩy nhân vật “quá lên”… Tôi hiểu cách cảm thụ văn chương chẳng ai giống ai, cũng biết lối viết của mình còn nhiều nhược điểm, nhưng… Trời sinh ra thế rồi, đến tuổi “cổ lai hy rồi”, muốn “cách tân” cũng chẳng thể theo kịp các tài năng trẻ.

Cũng chính vì những trang viết “y như thật” trong BĐĐNTĐ, nên những bạn đọc từng quen biết gia đình tôi mới nảy ra những “chất vấn” trên kia, mặc dù họ cũng hiểu đã là tiểu thuyết thì nhất thiết có sự “hư cấu”. Một số bạn phát biểu trong cuộc “Toạ đàm…” đã phần nào trả lời giúp tôi những “chất vấn” đó. Tôi rất tán thành ý kiến của anh Bùi Ngọc Quỳnh là muốn được độc giả đọc BĐĐNTĐ như là một tiểu thuyết, chứ đừng “đối chiếu” với việc này, người kia ở ngoài đời. Nhà thơ Vĩnh Nguyên cũng đã “khen” tôi “khôn ngoan” vì đã không “ôm” ông Viện và cả một gia đình đông đúc vào tiểu thuyết. Mẹ tôi có đến 9 người con, mà trong BĐĐNTĐ chỉ nói đến 4 người. Nếu bạn đã đọc cuốn “Cụ Hoàng Niêm đất Hương Sơn” (NXB Thuận Hoá, 2007) thì còn nhận ra nhiều yếu tố trong gia đình tôi đã không “có mặt” trong BĐĐNTĐ (dù là dưới hình thức “tiểu thuyết hoá”), ngay cả ở hai nhân vật chính là Cụ Huy và bà Huy. Bố tôi lập gia đình sớm, người vợ đầu là chị của một vị tiến sĩ ở làng bên cạnh, bà mất sau khi sinh 6 người con (trong đó có bác sĩ Nguyễn Khắc Viện); mẹ tôi là kế mẫu… Nói qua như thế để các bạn hiểu, nếu “ôm” tất cả các nhân vật đó vào sách với biết bao nhiêu là mối quan hệ và tâm lý nẩy sinh, tuy cũng rất “tiểu thuyết” và truyện có thể phong phú thêm, nhưng tác phẩm sẽ rất dài và chủ đề không tập trung. Cũng vì vậy, tôi không đưa hình ảnh anh Nguyễn Khắc Viện vào BĐĐNTĐ, mặc dù rất… tiếc. Còn một lý do nữa, cuộc đời và sự nghiệp của anh Viện sách báo đã nói đến rất nhiều, viết thành nhân vật tiểu thuyết dù sao cũng phải hư cấu, đó là điều không đơn giản, nhất là anh Viện có quan hệ với nhiều nhân vật lịch sử - văn hoá nổi tiếng trong nước và quốc tế, tác giả “bịa” không khéo thì coi chừng… Đó là chưa nói đến với môi trường hoạt động, tầm văn hoá và tư tưởng của anh Viện, một tác giả ít học như tôi, có lẽ chưa đủ khả năng dựng nên một nhân vật tiểu thuyết thành công. Rút cục lại thì vẫn là “lực bất tòng tâm”. Chỉ với số lượng nhân vật “rút gọn” lấy nguyên mẫu từ người thân trong gia đình và bà con ở quê mà bạn đọc đã “gặp” trong BĐĐNTĐ, tôi cũng phải cân nhắc, suy tính về nhiều mặt mới tạm được mọi người chấp nhận, không bị kiện tụng gì!

Hẳn sẽ có bạn sẽ bảo: Thế thì việc chi anh không “bịa” hoàn toàn cho khoẻ mà lại viết theo kiểu “ít nhiều có yếu tố tự truyện” cho rắc rối? Xin thưa: Như trên tôi đã nói, tôi có may mắn sống trong một gia đình đầy chất tiểu thuyết, dại chi mình không “lợi dụng”; mà hình như với rất nhiều nhà văn, nếu có điều kiện dựa vào “nguyên mẫu” thì trang viết sinh động và chân thực hơn…

Trường An-Huế, tháng 11/2010
N.K.P
(264/2-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).