Từ tiểu thuyết “bộ ba”… đến tính chất “tự truyện” của “Biết đâu địa ngục thiên đường”

09:09 28/01/2011
LTS: Tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường đã lập “hattrick” nhận liền ba giải thưởng trong năm 2010 (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Nguyễn Du, Tặng thưởng công trình Văn học nghệ thuật xuất sắc của Hội LHVHNT TT Huế). Để giải đáp phần nào thắc mắc từ phía bạn đọc về tính chất “tự truyện” cũng như chuyện bếp núc của cuốn tiểu thuyết “gia đình” này, Sông Hương xin giới thiệu bài viết của chính tác giả cầm tinh con Mèo - nhà văn Nguyễn Khắc Phê.

Nhà văn Nguyễn Quang Thân và tác giả


NGUYỄN KHẮC PHÊ



Trong bài trả lời báo Văn nghệ Trẻ hồi tháng 6/2010 về các vấn đề của tiểu thuyết trẻ, khi nhắc đến tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường, tôi đã viết: “Như đã ghi cuối cuốn sách, tôi đã viết cuốn tiểu thuyết này trong 20 năm (1986-2006). Tất nhiên là không phải ngồi viết suốt 20 năm ấy chỉ một cuốn sách này, nhưng mặt khác thì tôi đã “thai nghén” tác phẩm này trước đó rất lâu, nhưng cảm thấy mình chưa đủ sức, chưa “chín”, nên chưa thể đặt bút. Thoạt đầu, tôi đã định viết tác phẩm này theo kiểu bộ ba tiểu thuyết “Những con đường đau khổ” của A. Tônxtôi. Tôi đã viết tập I “Đàn chim lìa tổ”, nhưng qua bao nhiêu là trăn trở, suy tư, tôi bỏ, viết lại vì nghĩ rằng độc giả ngày nay chưa hẳn đã cần nghe nhà văn kể các sự tích đầy đủ theo kiểu tiểu thuyết “sử thi”; vả lại, viết dày ba tập, khoảng 2000 trang, ngay cả tác phẩm lớn của những văn hào, bây giờ liệu có mấy người dám bỏ thì giờ đọc lại, kể cả những thầy giáo dạy văn…”.

Tại cuộc “Toạ đàm” về cuốn tiểu thuyết này tại Huế do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Chi nhánh Công ty Văn hoá Phương Nam miền Trung tổ chức ngày 10/10/2010, một số bạn văn đã nhắc lại một số chương của tiểu thuyết này đã đăng trên Tạp chí Sông Hương năm 1987, khi đó cuốn sách còn mang tên “Ngày mẹ mong chờ”. Đó là những chương mở đầu của tiểu thuyết “bộ ba” như tôi đã nói ở trên. Sau khi nghe những nhận xét, bình phẩm của các bạn về cuốn BĐĐNTĐ tại cuộc “Toạ đàm…”, tôi đã có mấy lời như sau:

“…Trong một cuộc hội thảo như thế này, thường lời khen là nhiều, chỉ có lời chê rất thành thật của anh Tô Nhuận Vỹ là nên “khoanh vấn đề lại, ngắn hơn, để viết sâu hơn”... Tôi thấy điều đó rất đúng vì cuốn sách này từ khi viết xong đến lúc xuất bản, tôi đã phải mấy lần cân nhắc xem có thể rút gọn được chỗ nào không… Còn nếu cuốn sách đạt được đôi chút kết quả thì trước hết là nhờ hiện thực của đất nước vì tôi từng thú nhận mình là một nhà văn không có mấy tài năng. Hiện thực của đất nước Việt Nam vốn đầy chất tiểu thuyết. Không phải dân tộc nào cũng có số phận bi tráng với những trăn trở, thăng trầm như Việt Nam, do vị thế địa-chính trị trên thế giới và nhiều nguyên do khác. Thứ hai là hiện thực của gia đình - không biết có đáng gọi là may mắn không (vì hình như ở Việt Nam cũng nhiều gia đình như thế) đó là gia đình tôi có điều đặc biệt là anh em trong một nhà phân rã mỗi người một ngả rồi lại đoàn kết, gắn bó bên nhau. Giáo sư Vũ Ngọc Khánh, khi anh Nguyễn Khắc Viện mất, từng viết: “Một gia đình như gia đình cụ Nguyễn Khắc Niêm thật độc đáo. Nếu có dịp cả nhà cùng về sum họp, ta sẽ được gặp trong buổi hàn huyên này: Ông quan, người cán bộ dưới chế độ mới, nhà giáo, nhà văn… Ở đây có đủ mặt, người theo chủ nghĩa Cộng sản, người theo Phật giáo, người theo Công giáo, người theo Nho giáo… Không rõ có lần nào họ tranh luận với nhau về ý thức hệ hay không, chứ một gia đình như vậy quả là đặc biệt. Gần như tất cả các luồng văn hoá Đông Tây, cũ mới đều quy về gia đình này… Tôi biết họ rất tôn trọng nhau…” (Trích từ bài đăng trên báo Văn Nghệ ngày 24/5/1997). GS. Vũ Ngọc Khánh nhận xét tính chất “đặc biệt” của gia đình tôi, nhưng như tôi biết - và như thầy Trần Văn Hối đã nói - đất Nghệ Tĩnh và thật ra là dân tộc Việt Nam có nhiều gia đình “đặc biệt” như thế. (Cần nói thêm, có lẽ đó là “sản phẩm” của đặc điểm lịch sử dân tộc và sự giao thoa văn hoá trong tiến trình dựng nước và giữ nước của Việt Nam). Có phải đây cũng là một lý do giúp cho cuốn tiểu thuyết có được sự đồng cảm của không ít độc giả. “Có bột mới gột nên hồ” - nhờ được sống giữa một hiện thực đầy chất tiểu thuyết như thế, tôi mới viết nên BĐĐNTĐ.

Còn một điều nữa, cần nói thật là nhờ sự “Đổi Mới” của đất nước. Nếu không có công cuộc Đổi Mới năm 1986, tôi không thể viết được cuốn sách này. Chính là nguồn cảm hứng từ công cuộc Đổi Mới với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng quyền sáng tạo, được nói rõ sự thật của người cầm bút với trách nhiệm một công dân, một nhà văn, đã là một động lực thôi thúc tôi viết nên BĐĐNTĐ.

Nói về nhược điểm, như đã nói ở trên, một số người không nỡ chê, nhưng tôi biết cuốn sách cũng còn nhiều nhược điểm, tựu trung đều vì “lực bất tòng tâm”. Quả thật, với một cuốn tiểu thuyết như thế này, bao gồm nhiều nhân vật trí thức như thế, thú thật tôi chưa đủ tầm để viết một cách thấu đáo. Ví như có bạn đã trách tôi thể hiện nhân vật cụ Huy chưa sâu sắc. Mặc dù đó là hình ảnh của thân phụ mình, nhưng đúng là tôi chưa thể hiện được hết tâm trạng, sự giằng xé của một nhà khoa bảng trong những thời đoạn rất đặc biệt của lịch sử Việt Nam. Hoặc như hai anh em Tâm và Thanh đối chọi với nhau như thế, sau hai mươi năm gặp lại nhau, vẫn chưa “được” thật sự “đụng đầu”, đối thoại với nhau cho hết nhẽ… Tất cả đều do “lực bất tòng tâm”, nhưng như anh Tô Nhuận Vỹ nhận xét, mình không thể ôm hết, phải chọn lựa; và như trên đã nói, từ một phác thảo tiểu thuyết “bộ ba” đến BĐĐNTĐ, tác giả đã phải tự lược bớt nhiều thứ. Một số nhược điểm chưa làm bạn đọc thoả mãn, cũng có thể bắt nguồn từ đây.

Đi sâu hơn một chút vào “bếp núc” của nhà văn, khi chuẩn bị đưa bản thảo cho NXB, tôi đã thử lược bớt một số đoạn để cuốn sách đỡ dày, nặng và cũng là cách đẩy “tốc độ” chuyện lên như lời góp ý của một bạn văn và nhu cầu của không ít bạn đọc hiện nay. “Công đoạn” này đã làm cho bản thảo bớt được hơn một vạn từ (chữ), nhưng tôi biết có ý kiến muốn tác giả “mạnh tay” hơn nữa. Tôi cũng nghĩ, nếu nghiêm khắc hơn nữa, cũng còn có câu, có đoạn có thể lược bớt. Tuy vậy, xin được giãi bày một cách nghĩ, có thể là một quan niệm về tiểu thuyết: Tôi nghĩ tiểu thuyết không chỉ là việc kể một câu chuyện. Nếu chỉ để kể một câu chuyện thì ta có thể bỏ cách quãng nhiều thời đoạn, nhiều trang, khi không có sự kiện quan trọng; nhưng tiểu thuyết còn phải dựng nên một thế giới nghệ thuật - thế giới hiện thực, thế giới tâm hồn, cả hồn cốt một vùng quê… Ví như ở trang 295 trong BĐĐNTĐ, đoạn tả ông Chắt Hoè đến nhà cụ Huy giữa ngày lụt bàn chuyện mượn đò đi chặt củi, nếu để kể câu chuyện thì chỉ cần tả ông lội từ ngoài cổng vào rồi bước lên thềm thưa chuyện với bà cụ Huy (trang 296); nhưng tôi đã “dài dòng” tả thêm bữa ăn sáng của nhà cụ Huy lúc đó với món khoai lang khô hầm với đậu đỏ; hơn thế, còn “tỉ mẩn” nói rõ: nhân hồi đêm nấu cháo cá muộn, nên bà cụ Huy bảo Hảo hầm luôn nồi khoai khô; rồi tả bữa ăn đạm bạc ấy vẫn được chia mâm trên, mâm dưới cho đàn ông, đàn bà… Thiết nghĩ, cái đoạn “dông dài” này sẽ giúp bạn đọc hình dung rõ hơn hồn cốt một vùng quê - từ hương vị một món ăn dân dã, đến lối sống cần kiệm mà vẫn giữ nề nếp gia phong… Kể lể như vậy để bạn đọc thông cảm hơn với những trăn trở, có thể nói là vất vả của nhà văn trong quá trình viết, tuy rằng tất cả chưa thể làm thoả mãn bạn đọc…”.  

Nhân nói đến chuyện “bếp núc” trong nghề viết, xin kể lại việc chọn nhan đề tiểu thuyết. Khi cuốn sách sắp đưa in, NXB có nói với tôi có thể tìm một nhan đề khác không, vì cái tên BĐĐNTĐ tuy rất hay, rất trúng, nhưng dễ gây “sốc” và hiểu lầm. Tôi đã thử nêu ra cái tên ban đầu (Ngày mẹ mong chờ) nhưng rồi ai cũng thấy cái tên này “hiền lành” quá và cũng hơi… cải lương. Vả lại, có chi mà e ngại. Đây là một câu trong truyện Kiều, không chỉ đúng với rất nhiều số phận trong tiểu thuyết mà đó là câu hỏi muôn đời của nhân loại. Đất nước Đổi Mới đã hơn hai chục năm, lối suy diễn và cách nghĩ ấu trĩ trong văn nghệ đã là “chuyện xưa” rồi. Nhắc chuyện này cũng vì chính cái tên BĐĐNTĐ đã giúp tôi “tổ chức”, xây dựng lại từ một tiểu thuyết “bộ ba” trở thành cuốn sách như bạn đã đọc. Chính trong thời gian suy ngẫm viết lại cuốn tiểu thuyết, vào lúc tôi mở những trang bản thảo cũ, bắt gặp lời người mẹ đau đớn thốt lên khi cậu con trai cả bỏ nhà đi tu: “Con ơi! Biết đâu địa ngục thiên đường là đâu!”, thì gần như là một “ánh chớp” đối với người làm thơ khi chợt “tóm” được một cái “tứ” thú vị, tôi thấy đây sẽ là “sợi chỉ đỏ” xâu chuỗi các nhân vật và tình tiết, không chỉ giúp tác giả tránh sa lầy hay chạy theo các sự kiện cho đến “ngày mẹ mong chờ” mà còn nâng tầm tư tưởng của tác phẩm.

Về yếu tố “tự truyện” của tiểu thuyết, ngay khi sách mới ra, tôi cũng đã bị không ít người “chất vấn” điều này điều nọ, trong đó nhiều người hỏi “tại sao viết về gia đình mình mà không có ông Nguyễn Khắc Viện”; cũng có người hỏi “chị Thảo - “nguyên mẫu” nhân vật Thanh, chỉ có hai cậu con trai, sao truyện lại có cô Linh?” Đại thể như thế. Cũng có người “tò mò” rằng “chuyện Hưng ngủ cùng lán công trường với cô Lan giữa chốn đồng không mông quạnh mà không mần chi cả, chắc là tác giả bịa chứ gì?” Cái chi tiết này thì tôi có thể trả lời ngay: - “Chuyện đó là thật 100%!” - “Thế thì ông đúng là thánh thật!” Ông bạn “tò mò” ở đầu đường dây tại TP. Hồ Chí Minh nói vậy và cười toá lên.

Có bạn chê là tôi hơi quá “thật thà”, cũng có người như nhà văn Hoàng Ngọc Hà lại nói, chị thường không bỏ sót những gì tôi viết vì tin tôi luôn nói thật; nhà văn Hồng Nhu cũng thích cách tôi thể hiện nhân vật Hưng, không “bịa”, không đẩy nhân vật “quá lên”… Tôi hiểu cách cảm thụ văn chương chẳng ai giống ai, cũng biết lối viết của mình còn nhiều nhược điểm, nhưng… Trời sinh ra thế rồi, đến tuổi “cổ lai hy rồi”, muốn “cách tân” cũng chẳng thể theo kịp các tài năng trẻ.

Cũng chính vì những trang viết “y như thật” trong BĐĐNTĐ, nên những bạn đọc từng quen biết gia đình tôi mới nảy ra những “chất vấn” trên kia, mặc dù họ cũng hiểu đã là tiểu thuyết thì nhất thiết có sự “hư cấu”. Một số bạn phát biểu trong cuộc “Toạ đàm…” đã phần nào trả lời giúp tôi những “chất vấn” đó. Tôi rất tán thành ý kiến của anh Bùi Ngọc Quỳnh là muốn được độc giả đọc BĐĐNTĐ như là một tiểu thuyết, chứ đừng “đối chiếu” với việc này, người kia ở ngoài đời. Nhà thơ Vĩnh Nguyên cũng đã “khen” tôi “khôn ngoan” vì đã không “ôm” ông Viện và cả một gia đình đông đúc vào tiểu thuyết. Mẹ tôi có đến 9 người con, mà trong BĐĐNTĐ chỉ nói đến 4 người. Nếu bạn đã đọc cuốn “Cụ Hoàng Niêm đất Hương Sơn” (NXB Thuận Hoá, 2007) thì còn nhận ra nhiều yếu tố trong gia đình tôi đã không “có mặt” trong BĐĐNTĐ (dù là dưới hình thức “tiểu thuyết hoá”), ngay cả ở hai nhân vật chính là Cụ Huy và bà Huy. Bố tôi lập gia đình sớm, người vợ đầu là chị của một vị tiến sĩ ở làng bên cạnh, bà mất sau khi sinh 6 người con (trong đó có bác sĩ Nguyễn Khắc Viện); mẹ tôi là kế mẫu… Nói qua như thế để các bạn hiểu, nếu “ôm” tất cả các nhân vật đó vào sách với biết bao nhiêu là mối quan hệ và tâm lý nẩy sinh, tuy cũng rất “tiểu thuyết” và truyện có thể phong phú thêm, nhưng tác phẩm sẽ rất dài và chủ đề không tập trung. Cũng vì vậy, tôi không đưa hình ảnh anh Nguyễn Khắc Viện vào BĐĐNTĐ, mặc dù rất… tiếc. Còn một lý do nữa, cuộc đời và sự nghiệp của anh Viện sách báo đã nói đến rất nhiều, viết thành nhân vật tiểu thuyết dù sao cũng phải hư cấu, đó là điều không đơn giản, nhất là anh Viện có quan hệ với nhiều nhân vật lịch sử - văn hoá nổi tiếng trong nước và quốc tế, tác giả “bịa” không khéo thì coi chừng… Đó là chưa nói đến với môi trường hoạt động, tầm văn hoá và tư tưởng của anh Viện, một tác giả ít học như tôi, có lẽ chưa đủ khả năng dựng nên một nhân vật tiểu thuyết thành công. Rút cục lại thì vẫn là “lực bất tòng tâm”. Chỉ với số lượng nhân vật “rút gọn” lấy nguyên mẫu từ người thân trong gia đình và bà con ở quê mà bạn đọc đã “gặp” trong BĐĐNTĐ, tôi cũng phải cân nhắc, suy tính về nhiều mặt mới tạm được mọi người chấp nhận, không bị kiện tụng gì!

Hẳn sẽ có bạn sẽ bảo: Thế thì việc chi anh không “bịa” hoàn toàn cho khoẻ mà lại viết theo kiểu “ít nhiều có yếu tố tự truyện” cho rắc rối? Xin thưa: Như trên tôi đã nói, tôi có may mắn sống trong một gia đình đầy chất tiểu thuyết, dại chi mình không “lợi dụng”; mà hình như với rất nhiều nhà văn, nếu có điều kiện dựa vào “nguyên mẫu” thì trang viết sinh động và chân thực hơn…

Trường An-Huế, tháng 11/2010
N.K.P
(264/2-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.