Từ những tàn đêm

09:38 17/10/2008

NHỤY NGUYÊN

(Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ ít nhiều gây nên dị ứng đối với lối viết, lối đọc, lối suy niệm truyền thống. Đặc điểm nổi trội của nó, là sự trừu tượng hóa ngôn từ và xâu chuỗi, tập hợp những ngôn từ khác lạ đứng cạnh nhau trong một không gian với nhiều cửa sổ.

Nằm trong dòng thơ mang dấu ấn trên, ở khía cạnh nhất định, thơ Đoàn Mạnh Phương trong Ngày rất dài(*) là sự cộng hưởng giữa chiêm nghiệm và nội lực vô thức, có thể cảm nhận thông qua mọi giác quan. Anh có rất nhiều câu thơ mang nặng sự sinh tồn, được cảm nhận bằng… vị giác: Thể xác ngắn hơn và nhỏ hơi chiếc bóng/ từng tẩm độc lưỡi và mồm; Kỷ niệm như ớt cay/ giã vào muối nhớ. Trong tình yêu, kỷ niệm luôn trường tồn và cô đọng theo thời gian: Anh - tận cuống tâm hồn còn đăng đắng/ nhựa yêu… Ấy là vị đắng của phương thuốc dành cho căn bệnh “ảo giác thơ”, “ảo giác tình”. Nhờ vậy nhà thơ mở được một lớp cửa “vô minh”, và ánh sáng của tâm thức ùa vào những tấm gương phủ bụi:

Lưỡi cưa của tư duy ứa ra điều kỳ lạ mới

Sau cái hích vai của thời cuộc

Màn giao phối tinh thần, đẻ ra những khái niệm…

Bởi “đội quân” ngôn từ của Đoàn Mạnh Phương ít được đánh bóng và không nhất thiết mỗi chúng phải ngồi đúng vị trí trong “khuôn phép” thơ, nên anh có cách thể hiện lạ, rất đặc trưng cho tính nhòa nghĩa, “vô nghĩa” của thơ:

Bốc mộ những kỷ niệm/ Nặng trên tay/ Xương cốt của niềm tin;

căn phòng giàn giụa hương thơm/ ký ức hất ngược sáng;

Với bữa tiệc tâm hồn/ gắp đầy tâm trạng;

Trong thấy và nói/ Trong nói và im/ có tiếng ngáy của vô thức/ cùng cái nhìn ninh nhừ hiện thực.

“Tình yêu thè lưỡi thật gần/ Liếm vào tim nhau âu yếm” - Hai câu thơ đọc qua cảm giác rờn rợn khó đồng cảm song trong đấy có một tầng nghĩa mới: Tình yêu như một linh hồn độc lập bên cạnh hai tiểu vũ trụ trái dấu. Yêu như một sự hiến mình cho lửa: dán em lên những giấc mơ căng ướt đời anh/ Anh đã bén vào em… Người đàn ông không tài nào gỡ nổi thứ bùa mê để rồi dẫn tới… nghiện ngập:

Em - thứ bùa mê chết người không tài nào gỡ nổi

Em không chạy trốn khỏi anh

sự ám ảnh sột soạt bùng nhùng

Sự nghiện ngập không mang ý nghĩ hoang đường; người đàn ông không tưởng tượng, người đàn ông đã thu được tín hiệu rõ nét từ Em:

Và đêm đêm

ngày ngày

anh biết

Em vẫn thường theo thói quen quờ tay vào

bóng tối…

 

Bên cạnh tình yêu, ẩn chứa tình đời sâu đậm - ấy là người đàn ông bản lĩnh, đủ tư cách đồng hành với Thơ trên cõi đời. Có lẽ Đoàn Mạnh Phương là một người đàn ông như vậy. Trong Ngày rất dài, mảng tình đời chiếm tỉ lệ tương đối. Đây là một ưu điểm nổi lên trong bề bộn thơ nay.

- Cha mẹ đã đi mờ đất, cho con nặng trĩu tháng ngày

- Gia tài mà cha để lại, không phải nhà lầu xe hơi

Là những trang văn đa cảnh, kể nên những câu chuyện đời

- Cứ mỗi ngày, lá thu dần phủ mặt

Dốc cạn những tiếng chim ra khỏi vành tai

Trai gái kéo nhau đi nhuộm màu sơn thành phố

Chỉ còn mỗi cánh đồng ngồi lại với bà tôi…

Đến nỗi đau. Từng giọt tim anh nhỏ trên luống chữ. Trên luống chữ, ngôn ngữ vừa đi vừa chảy máu:

Cào lên ngực con

Nỗi đau của nỗi đau cao hơn mất mát

Con tay trắng ra đường

Chênh vênh như đám mây trời hạ

Ngôi nhà

Tỏa đầy hương khói

Lần tìm dáng Mẹ hình Cha

Nén hương khóc trong khuya và cong hình dấu hỏi

Con ngồi rỗng đêm cùng với những suy tư côi cút của mình…

Nỗi đau hơn cả nỗi đau đó đã dẫn anh lạc vào bể khổ kiếp người:

- Này đây - nước mắt/ Lấy mà rửa thân!

- Giẫm lên ngã ba ngày

đã đổ nghiêng

mệt mỏi

Phút giây này là im lặng toàn thân

Dục hỉ nộ ai lạc ái ố

Khuyếch tán vào không gian…

Song hành với nó, một câu hỏi mang hồn thơ anh vút lên cao xanh: Nháp bao nhiêu nỗi buồn để có một niềm vui? Để anh nhìn thấy rõ quả địa cầu mình đứng; nhìn thấy chiến tranh - cái gông xiết vào trái đất.

Trái đất đã xoay hàng triệu năm rồi

Vẫn đốt nát lòng ta dấu hỏi

Và trái đất lăn đi trong tiếng nghiến đau buồn

Tôi hình dung trái đất trong mấy câu thơ trên có trục hẳn hoi, nghiến vào vòng bi đã rỗ, nặng nề, chậm chạp. Nhưng đau buồn hơn hết là những lớp người từng kinh qua chiến tranh vẫn không trả lời được câu hỏi: Chiến tranh là gì (?). Đã có rất nhiều những đứa trẻ bị nhiễm đioxin bị kết án trong chiến tranh và sau chiến tranh. Rồi những đứa trẻ hôm nay… vẫn đốt nát lòng ta dấu hỏi. Khi ấy, người cha người mẹ nào không dằn vặt:

Chiến tranh là gì? Chiến tranh là gì nhỉ?

Mà lấy đi cái tuyệt vời trong trẻo của con tôi?

Những câu thơ có sức nén dễ sợ, sức nén tựa như những trái bom sót lại từ thời chiến đang nằm đâu đó dưới lòng đất, dưới chân chúng ta.

 

Đọc Ngày rất dài trong một đêm chớm hạ, nóng bức, hình hài của ngày hiện dần theo đêm. Ngày và đêm là sự luân chuyển nối tiếp trong vũ trụ. Chúng ta có rất nhiều cách để lý giải sự thể đó. Đoàn Mạnh Phương có cách định nghĩa riêng độc đáo:

Bằng những phép cộng

Những trái tim cộng vào nhau

bằng phép cộng của sự cảm thông vô giới hạn

phép cộng của những cảm xúc nối kết cảm xúc

của ánh sáng cộng vào ánh sáng

của hy vọng cộng đầy hy vọng

cộng vào nhau

chuỗi tư duy chuyển động…

Nhưng, rốt cục giữa đêm và ngày, “ai” là cái bào thai của sự sống. Bởi thực ra giữa ngày và đêm luôn luôn có một sự đối chọi “cạnh tranh” khốc liệt:

Đánh thức sự yên lặng

đôi khi

đêm vuốt dọc sống lưng

Ngày đã đánh tả tơi sự nguyên vẹn

Có phải vì vậy mà trong Ngày rất dài đầy ắp những dấu hỏi, đầy ắp những trở trăn day dứt, đầy ắp những nghĩ suy, và thậm chí bi quan:

Ngày ngày ngửa mặt/ trên tất thảy mọi hoang vu xanh xám ẩm buồn (Hành trình); Ngay ngắn thở trong một thế giới nghiêng, sự tương thích của ý nghĩ, sự gắng gượng của âm thầm trải nghiệm (Đường dẫn); Từng mỏi nghĩ/ bao giờ mòn hết núi/ gió lang thang không trói nổi khoảng trời riêng (Tín hiệu); Ngày lấm lem ý nghĩ/ Tôi giặt chính tôi (Đối diện); Bò lên thân thể ta những nhánh rễ của cảm xúc/ Những nghĩ suy dựng bờm (Gạch nối); Khác với những cuộc rong chơi ngạo mạn và vô tích sự/ Ý nghĩ ngụ cư trong khoảnh khắc tràn qua (Không đề); Hàng đêm/ từng bôi trơn và chăn nuôi ý nghĩ/…/ Tiếng côn trùng thao thiết/ Cháy trong cổ họng tư duy (Đánh thức); Ngày thúc vào sọ não/ những điệp từ/ Những bộ mặt, dáng đi và cái nhìn cơ học (Nhân thế); Ánh ngày nín thinh/ trong đầu ta vắng tanh ý nghĩ mới/ Thả phanh về vô cực (Khởi động); Khi ý tưởng lĩnh xướng/ Những ngón chân khởi động bắt đầu/ Thời gian/ Con ngựa già lở móng (Nối tiếp); Đôi lúc, tôi chạy trốn khỏi đám đông bằng bước chân ý nghĩ (Đám đông); Nghẹt thở/ giữa những ý niệm rỗng/ chân đá phải một hư từ (Cảm giác). Và, “khoảnh khắc bình yên của con người vừa trườn qua bão lũ”, đi trong từng thớ não của tác giả.

Nhưng:

Rồi sẽ đến

Vỡ òa ánh sáng

Nơi vườn cây trí tuệ mọc tươi xanh.

Rồi sẽ:

Loài người đi về phía những cánh rừng

Săn đuổi từng ngày đánh mất..

                24/4/07

 

--------------

(*) Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb. Hội Nhà văn, 2007.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.