NHỤY NGUYÊN
(Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)
Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ ít nhiều gây nên dị ứng đối với lối viết, lối đọc, lối suy niệm truyền thống. Đặc điểm nổi trội của nó, là sự trừu tượng hóa ngôn từ và xâu chuỗi, tập hợp những ngôn từ khác lạ đứng cạnh nhau trong một không gian với nhiều cửa sổ.
Nằm trong dòng thơ mang dấu ấn trên, ở khía cạnh nhất định, thơ Đoàn Mạnh Phương trong Ngày rất dài(*) là sự cộng hưởng giữa chiêm nghiệm và nội lực vô thức, có thể cảm nhận thông qua mọi giác quan. Anh có rất nhiều câu thơ mang nặng sự sinh tồn, được cảm nhận bằng… vị giác: Thể xác ngắn hơn và nhỏ hơi chiếc bóng/ từng tẩm độc lưỡi và mồm; Kỷ niệm như ớt cay/ giã vào muối nhớ. Trong tình yêu, kỷ niệm luôn trường tồn và cô đọng theo thời gian: Anh - tận cuống tâm hồn còn đăng đắng/ nhựa yêu… Ấy là vị đắng của phương thuốc dành cho căn bệnh “ảo giác thơ”, “ảo giác tình”. Nhờ vậy nhà thơ mở được một lớp cửa “vô minh”, và ánh sáng của tâm thức ùa vào những tấm gương phủ bụi:
Lưỡi cưa của tư duy ứa ra điều kỳ lạ mới
Sau cái hích vai của thời cuộc
Màn giao phối tinh thần, đẻ ra những khái niệm…
Bởi “đội quân” ngôn từ của Đoàn Mạnh Phương ít được đánh bóng và không nhất thiết mỗi chúng phải ngồi đúng vị trí trong “khuôn phép” thơ, nên anh có cách thể hiện lạ, rất đặc trưng cho tính nhòa nghĩa, “vô nghĩa” của thơ:
Bốc mộ những kỷ niệm/ Nặng trên tay/ Xương cốt của niềm tin;
căn phòng giàn giụa hương thơm/ ký ức hất ngược sáng;
Với bữa tiệc tâm hồn/ gắp đầy tâm trạng;
Trong thấy và nói/ Trong nói và im/ có tiếng ngáy của vô thức/ cùng cái nhìn ninh nhừ hiện thực.
“Tình yêu thè lưỡi thật gần/ Liếm vào tim nhau âu yếm” - Hai câu thơ đọc qua cảm giác rờn rợn khó đồng cảm song trong đấy có một tầng nghĩa mới: Tình yêu như một linh hồn độc lập bên cạnh hai tiểu vũ trụ trái dấu. Yêu như một sự hiến mình cho lửa: dán em lên những giấc mơ căng ướt đời anh/ Anh đã bén vào em… Người đàn ông không tài nào gỡ nổi thứ bùa mê để rồi dẫn tới… nghiện ngập:
Em - thứ bùa mê chết người không tài nào gỡ nổi
Em không chạy trốn khỏi anh
sự ám ảnh sột soạt bùng nhùng
Sự nghiện ngập không mang ý nghĩ hoang đường; người đàn ông không tưởng tượng, người đàn ông đã thu được tín hiệu rõ nét từ Em:
Và đêm đêm
ngày ngày
anh biết
Em vẫn thường theo thói quen quờ tay vào
bóng tối…
Bên cạnh tình yêu, ẩn chứa tình đời sâu đậm - ấy là người đàn ông bản lĩnh, đủ tư cách đồng hành với Thơ trên cõi đời. Có lẽ Đoàn Mạnh Phương là một người đàn ông như vậy. Trong Ngày rất dài, mảng tình đời chiếm tỉ lệ tương đối. Đây là một ưu điểm nổi lên trong bề bộn thơ nay.
- Cha mẹ đã đi mờ đất, cho con nặng trĩu tháng ngày
- Gia tài mà cha để lại, không phải nhà lầu xe hơi
Là những trang văn đa cảnh, kể nên những câu chuyện đời
- Cứ mỗi ngày, lá thu dần phủ mặt
Dốc cạn những tiếng chim ra khỏi vành tai
Trai gái kéo nhau đi nhuộm màu sơn thành phố
Chỉ còn mỗi cánh đồng ngồi lại với bà tôi…
Đến nỗi đau. Từng giọt tim anh nhỏ trên luống chữ. Trên luống chữ, ngôn ngữ vừa đi vừa chảy máu:
Cào lên ngực con
Nỗi đau của nỗi đau cao hơn mất mát
Con tay trắng ra đường
Chênh vênh như đám mây trời hạ
…
Ngôi nhà
Tỏa đầy hương khói
Lần tìm dáng Mẹ hình Cha
Nén hương khóc trong khuya và cong hình dấu hỏi
Con ngồi rỗng đêm cùng với những suy tư côi cút của mình…
Nỗi đau hơn cả nỗi đau đó đã dẫn anh lạc vào bể khổ kiếp người:
- Này đây - nước mắt/ Lấy mà rửa thân!
- Giẫm lên ngã ba ngày
đã đổ nghiêng
mệt mỏi
Phút giây này là im lặng toàn thân
Dục hỉ nộ ai lạc ái ố
Khuyếch tán vào không gian…
Song hành với nó, một câu hỏi mang hồn thơ anh vút lên cao xanh: Nháp bao nhiêu nỗi buồn để có một niềm vui? Để anh nhìn thấy rõ quả địa cầu mình đứng; nhìn thấy chiến tranh - cái gông xiết vào trái đất.
Trái đất đã xoay hàng triệu năm rồi
Vẫn đốt nát lòng ta dấu hỏi
Và trái đất lăn đi trong tiếng nghiến đau buồn
Tôi hình dung trái đất trong mấy câu thơ trên có trục hẳn hoi, nghiến vào vòng bi đã rỗ, nặng nề, chậm chạp. Nhưng đau buồn hơn hết là những lớp người từng kinh qua chiến tranh vẫn không trả lời được câu hỏi: Chiến tranh là gì (?). Đã có rất nhiều những đứa trẻ bị nhiễm đioxin bị kết án trong chiến tranh và sau chiến tranh. Rồi những đứa trẻ hôm nay… vẫn đốt nát lòng ta dấu hỏi. Khi ấy, người cha người mẹ nào không dằn vặt:
Chiến tranh là gì? Chiến tranh là gì nhỉ?
Mà lấy đi cái tuyệt vời trong trẻo của con tôi?
Những câu thơ có sức nén dễ sợ, sức nén tựa như những trái bom sót lại từ thời chiến đang nằm đâu đó dưới lòng đất, dưới chân chúng ta.
Đọc Ngày rất dài trong một đêm chớm hạ, nóng bức, hình hài của ngày hiện dần theo đêm. Ngày và đêm là sự luân chuyển nối tiếp trong vũ trụ. Chúng ta có rất nhiều cách để lý giải sự thể đó. Đoàn Mạnh Phương có cách định nghĩa riêng độc đáo:
Bằng những phép cộng
Những trái tim cộng vào nhau
bằng phép cộng của sự cảm thông vô giới hạn
phép cộng của những cảm xúc nối kết cảm xúc
của ánh sáng cộng vào ánh sáng
của hy vọng cộng đầy hy vọng
cộng vào nhau
chuỗi tư duy chuyển động…
Nhưng, rốt cục giữa đêm và ngày, “ai” là cái bào thai của sự sống. Bởi thực ra giữa ngày và đêm luôn luôn có một sự đối chọi “cạnh tranh” khốc liệt:
Đánh thức sự yên lặng
đôi khi
đêm vuốt dọc sống lưng
Ngày đã đánh tả tơi sự nguyên vẹn
Có phải vì vậy mà trong Ngày rất dài đầy ắp những dấu hỏi, đầy ắp những trở trăn day dứt, đầy ắp những nghĩ suy, và thậm chí bi quan:
Ngày ngày ngửa mặt/ trên tất thảy mọi hoang vu xanh xám ẩm buồn (Hành trình); Ngay ngắn thở trong một thế giới nghiêng, sự tương thích của ý nghĩ, sự gắng gượng của âm thầm trải nghiệm (Đường dẫn); Từng mỏi nghĩ/ bao giờ mòn hết núi/ gió lang thang không trói nổi khoảng trời riêng (Tín hiệu); Ngày lấm lem ý nghĩ/ Tôi giặt chính tôi (Đối diện); Bò lên thân thể ta những nhánh rễ của cảm xúc/ Những nghĩ suy dựng bờm (Gạch nối); Khác với những cuộc rong chơi ngạo mạn và vô tích sự/ Ý nghĩ ngụ cư trong khoảnh khắc tràn qua (Không đề); Hàng đêm/ từng bôi trơn và chăn nuôi ý nghĩ/…/ Tiếng côn trùng thao thiết/ Cháy trong cổ họng tư duy (Đánh thức); Ngày thúc vào sọ não/ những điệp từ/ Những bộ mặt, dáng đi và cái nhìn cơ học (Nhân thế); Ánh ngày nín thinh/ trong đầu ta vắng tanh ý nghĩ mới/ Thả phanh về vô cực (Khởi động); Khi ý tưởng lĩnh xướng/ Những ngón chân khởi động bắt đầu/ Thời gian/ Con ngựa già lở móng (Nối tiếp); Đôi lúc, tôi chạy trốn khỏi đám đông bằng bước chân ý nghĩ (Đám đông); Nghẹt thở/ giữa những ý niệm rỗng/ chân đá phải một hư từ (Cảm giác). Và, “khoảnh khắc bình yên của con người vừa trườn qua bão lũ”, đi trong từng thớ não của tác giả.
Nhưng:
Rồi sẽ đến
Vỡ òa ánh sáng
Nơi vườn cây trí tuệ mọc tươi xanh.
Rồi sẽ:
Loài người đi về phía những cánh rừng
Săn đuổi từng ngày đánh mất..
24/4/07
--------------
(*) Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb. Hội Nhà văn, 2007.
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.